| Reflections on the “We Want to Know” Movement By (Zuc) Tang Duc Dao, Solicitor Constitution Hill 11/9/14 In the last few days, the
  online community of Vietnam has witnessed one of the most creative,
  intriguing and exciting events in its history. That is the birth of the “We
  Want to Know” Movement led by members of the Bloggers Network of Vietnam, a
  civil society organization founded by private citizens and independent of the
  vast network of media outlets funded by the state and subject to the absolute
  control of the Communist Party of Vietnam (CPV). The simple and sensible
  message of this movement has spread like wild fire. Their message reads: We, the people want the state
  (read CPV) to inform us of decisions affecting the nation, in particular, the
  content of the private agreement between the CPV and the Chinese Communist
  Party (CCP) at the Chengdu inter-party Convention of 1990. At this infamous convention,
  the CPV was represented by then General Secretary Nguyen Van Linh,
  Prime-Minister Do Muoi and Adviser to the Central Committee Pham Van Dong.
  The CCP was represented by then General Secretary Jiang Zemin and Premier Li
  Peng. It is common knowledge in
  Vietnam that during this convention, in the wake of the fall of the Soviet
  Union and the entire Communist Bloc of Eastern Europe, the CPV had sold out
  Vietnam to China, in order to curry Chinese support for its continued hold on
  power in Vietnam. The extent of such selling-out
  of the national interests could range from territorial and sea areas
  concessions to the gradual absorption of Vietnam into China, as a province or
  autonomous region, on par with Tibet or Inner Mongolia.  The CPV has kept jealously as
  a secret the content of that meeting from the public. Under its draconian state
  secrecy laws and secret service rule, all oppositions are silenced without
  pity. It is now clear to concerned
  citizens of Vietnam that subsequent to the Chengdu Convention, the CPV,
  through its puppet Congress, had legislated or consented to cede part of Ban
  Gioc Fall, the Nam Quan Pass, tens of thousands of square kilometres of the
  North Vietnam Bay to the Chinese. Furthermore, the feeble and laughable
  reactions of the CPV to Chinese aggression in the South China Sea and
  Vietnamese continental shelf are indicative of the treacherous nature of such
  national sell-out. Why did the We Want To Know
  Movement strike such a cord in the minds and hearts of the Vietnamese people? The reason could partly be
  attributed to the world wide web. Indeed, within a couple of decades, the
  internet has brought untold knowledge and power to the people. They want to
  know because they are aware that, simply as the people, they are born endowed
  with the right to know. They also know that this
  right to know has been enshrined for centuries in the constitutions of all
  democratic nations of the world, both at legal and institutional levels and
  the peoples of other nations have been enjoying this right totally
  unfettered. Perhaps the best illustration
  of the importance of the people’s right to know could be found in the
  following quote by James Madison, the Fourth President of the USA: “A
  popular Government without popular information, or the means of acquiring it,
  is but a Prologue to a Farce or a Tragedy, or perhaps both. Knowledge will forever govern
  ignorance: And a people who mean to be their own Governors, must arm
  themselves with the power which knowledge gives.” (Letter to W.T.
  Barry 1822)                                     
 This
  right to know is part of a dual concept fundamental to all democratic
  government:  transparency and accountability. While transparency in government
  finds immediate resonance in the right of the people to know, this concept
  will not be sustainable unless there is accountability in government.  That
  is unless government is responsible to a higher authority with real power to
  rein in its potential abuses. In
  the USA, under the presidential system of governance, Montesquieu’s
  horizontal separation of powers is applied. The president, wielding executive
  power, is accountable not only to Congress (which holds legislative power and
  in which government and opposition representatives and senators are
  legitimately part of) and the Supreme Court (which holds independent judicial
  power), but also accountable to a vibrant, prosperous privately owned media
  which leads civil society and reports directly to the people any government misdemeanours. In
  democratic nations under the parliamentary system of government, such as
  Great Britain and Australia, although Montesquieu’s separation of powers is
  not strictly implemented, similar accountability practises are in place and
  the existence of an official opposition in the parliament compensates for the
  lack of separation of powers between the executive and legislative branches. The question is: why this right to know by
  the people is at issue in Vietnam? The
  answer lies in her socialist heritage.  Superficially,
  the 2013 constitution, at a legal level, makes mention of fundamental
  principles found in all true democracies such as the existence of three
  branches of government, the right to vote, free enterprise and market economy.
  However, this is only a farce. This constitution also enshrines concepts that
  actively undermine these fundamental democratic principles. Indeed, article 4
  gives monopoly of political power to the Communist Party of Vietnam (CPV), the
  bizarre Leninist concept of democratic centralism subjugates lower echelons
  of society to central authority, the Fatherland Front pre-selects candidates
  for elections on behalf of the CPV, state enterprises prevails over private
  enterprises and the economy  must
  follow socialist orientations. If
  we ponder further on the above quotation from James Madison, it appears to lead
  to the conclusion that the people’s right to know varies in proportion with
  democratic freedoms. The more democracy, the more knowledge for the people about
  government decisions. The next question thus arises: what should
  be done to bring about democracy to Vietnam? For
  a democracy and thus the people’s right to know to be established, there must
  be not only unfettered legal recognition of democratic principles, but equally
  importantly, democratic institutions must also be created.    Under the CPV rule, these
  institutions are totally banned. There are no opposition political parties to
  question any CPV decision, the party and government are identical, there is
  no independent judicial power, there is no independent electoral commission
  and no free election. Candidates are pre-selected by the Fatherland Front,
  the CPV controls all three branches of government, all media outlets belong
  to and are funded by the CPV government. Under these conditions, instead of
  being transparent and accountable, the Vietnamese government is opaque and unaccountable. To paraphrase Lord Acton,
  power corrupts and absolute power corrupts absolutely. The CPV is corrupt to
  its teeth. It is apparent to the people that the CPV has sold out Vietnamese
  sovereignty to the Chinese Communist Party (CCP) for political power and for
  cash to its leaders. The extent of such sell-out
  is probably unfathomable and with the dawning of the information age, the
  people want to know. But this knowledge can come
  only over the dead body of the CPV and many of its prominent leaders. They
  are now fighting for their survival. The 21st century
  thus promises an epic battle between the Vietnamese people and the CPV, over
  the issue of the people’s right to know. And when the people do know, the CPV
  will be a goner and relegated to the dustbin of history, to paraphrase no
  other than Vladimir Ilich Lenin. | Suy tư về Phong Trào Chúng Tôi Muốn Biết Luật Sư Đào Tăng Dực Constitution Hill 11/9/14 Trong mấy ngày gần đây,
  cộng đồng mạng Việt Nam chứng kiến một trong những biến cố mang
  tính sáng tạo, nhiều ẩn dụ và gây cấn nhất lịch sử mạng. Đó là
  sự ra đời của Phong Trào Chúng Tôi Muốn Biết dưới sự điều hướng
  của Mạng Lưới Bloggers Việt Nam (MLBVN), một tổ chức xã hội dân sự
  do cá nhân các công dân và độc lập đối với hệ thống thông tin do
  nhà nước tài trợ và đặt dưới quyền kiểm soát tuyệt đối của đảng
  Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Thông điệp đơn giản và
  thông minh của phong trào đã lan tràn như lửa cháy rừng hoang. Thông
  điệp này như sau: Chúng tôi, nhân dân muốn
  chính quyền (tức CSVN) thông tin cho chúng tôi biết những quyết định
  ảnh hưởng đến quốc gia, nhất là nội dung của thỏa hiệp riêng giữa
  các đảng CSVN và CSTQ tại Hội Nghị Liên Đảng Thành Đô năm 1990. Tại hội nghị ô nhục này,
  cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Nguyên Thủ Tướng Đỗ Mười và Cố Vấn
  Ban Chấp Hành Trung Ương Phạm Văn Đồng đại diện cho CSVN. Nguyên Tổng Bí Thư Giang
  Trạch Dân và nguyên Thủ Tướng Lý Bằng đại diện CSTQ. Quảng đại quần chúng tại
  Việt Nam biết rằng, trong hội nghị này, với sự sụp đổ của Liên
  Bang Sô Viết và toàn khối cộng sản Đông Âu, CSVN đã bán nước Việt
  Nam cho Trung Quốc, hầu mua chuộc sự ủng hộ của Trung Quốc để tiếp
  tục nắm quyền lực tại Việt Nam. Tầm mức của tác động
  bán nước này có thể từ nhượng các vùng đất và biển đến sự sát
  nhập lâu dài quốc gia Việt Nam vào Trung Quốc, như là một tỉnh hoặc
  vùng tự trị, ngang hàng với Tây Tạng hoặc Nội Mông. CSVN dấu kín như bưng nội
  dung của hội nghị này, không cho quần chúng biết. Dưới chế độ luật
  lệ khắc khe về bí mật nhà nước và công an trị, mọi đối lập đều
  bị dập tắt không thương tiếc. Bây giờ, những công dân
  còn quan tâm đến vận mệnh quốc gia đều biết rằng, sau Hội Nghị
  Thành Đô, CSVN, qua Quốc Hội bù nhìn, đã ra sắc luật hoặc đồng ý nhượng
  một phần Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan và hằng chục ngàn cây số vuông
  Vịnh Bắc Việt cho Trung Quốc. Thêm vào đó, các phản
  ứng yếu ớt và buồn cười của CSVN trước sự hung hăng của Trung Quốc
  tại Biển Đông và thềm lục địa Việt Nam là những chỉ dẫn cho thấy
  bản chất phản quốc của tác động bán nước này. Tại sao Phong Trào Chúng
  Tôi Muốn Biết có thể đi thẳng vào tim óc của người dân Việt? Lý do có thể một phần
  phát xuất từ mạng lưới toàn cầu. Thật vậy, trong vòng hai thập
  niên, mạng lưới này đã đem lại rất nhiều hiểu biết và quyền lực
  cho người dân. Người dân muốn biết bỡi vì họ ý thức rằng, chỉ cần
  như là nhân dân, là họ đã sinh ra và được ban bố cho quyền được
  biết. Họ cũng biết rằng quyền
  được biết này đã được khắc ghi trong hiến pháp của mọi quốc gia
  dân chủ trên thế giới, từ nhiều thế kỷ, trên cả hai bình diện pháp
  lý lẫn định chế, và nhân dân của các quốc gia này đã hưởng thụ
  quyền này một cách trọn vẹn. Có lẽ biểu đạt tốt nhất
  về sự quan trọng của quyền người dân được biết được tìm thấy trong
  đoạn văn trích dẫn sau đây từ James Madison, vị Tổng Thống thứ Tư
  của Hoa Kỳ: “Một chính quyền của nhân
  dân mà không có thông tin cho nhân dân, hoặc phương tiện hầu nhân dân
  có thông tin, chỉ là nhập đề cho một tấn tuồng dối gạt hoặc một
  thảm họa hoặc có thể cả hai. Sự hiểu biết sẽ thống trị sự ngu
  dốt vĩnh viễn: Và một dân tộc muốn làm chủ vận mệnh của mình,
  phải trang bị cho chính mình quyền lực mà sự hiểu biết có thể đem
  lại.” (Thư viết cho W.T. barry 1822) Quyền được biết này là
  một thành phần của một ý niệm kép làm nền tảng cho các chính
  quyền dân chủ: minh bạch và trách
  nhiệm. Trong khi minh bạch trong
  chính quyền tìm được cảm ứng lập tức với quyền được biết của
  nhân dân, ý niệm này sẽ không thể bền vững trừ phi chính quyền
  phải chịu trách nhiệm. Có nghĩa là, trừ phi chính quyền chịu
  trách nhiệm trước một cơ chế quyền lực cao hơn, có thực quyền để
  giới hạn những lạm dụng có thể xảy ra. Tại Hoa Kỳ, dưới hệ
  thống chính quyền theo  tổng thống
  chế, khái niệm phân quyền hàng ngang của Montesquieu được áp dụng.
  Tổng thống nắm quyền hành pháp, chịu trách nhiệm không những với
  Quốc Hội (giữ quyền lập pháp và trong quốc hội có những dân biểu
  và thượng nghị sĩ của cả chính quyền lẫn đối lập như là những
  thành phần chính đáng) và Tối Cao Pháp Viện (giữ quyền tư pháp
  độc lập), mà còn chịu trách nhiệm với một hệ thống báo chí
  truyền thông tư nhân hùng mạnh và phồn vinh, điều hướng xã hội dân
  sự và thông tin trực tiếp với nhân dân về bất cứ hành vi sai trái
  nào của chính quyền. Tại các quốc gia dân chủ
  theo quốc hội chế, như Vương Quốc Anh hoặc Úc Đại Lợi, mặc dầu
  nguyên tắc phân quyền của Montesquieu không được áp dụng triệt để,
  nhưng những nguyên tắc chịu trách nhiệm tương tự cũng hiện hành và
  sự hiện hữu của một phe đối lập chính thức trong quốc hội điền
  khuyết cho sự thiếu vắng phân chia quyền lực giữa hành pháp và lập
  pháp. Câu hỏi là: tại sao quyền dược biết của nhân dân là vấn đề
  tại Việt Nam? Câu trả lời nằm nơi di
  sản xã hội chủ nghĩa của dân tộc. Một cách phiến diện,
  hiến pháp 2013, trên bình diện pháp lý, đề cập đến những nguyên
  tắc nền tảng tìm thấy trong những nền dân chủ chân chính, như tam
  quyền, quyền bầu cử, tự do kinh doanh và kinh tế thị trường. Tuy
  nhiên đó chỉ là trò hề lừa gạt. Hiến pháp này cũng khắc ghi
  những khái niệm triệt tiêu những nguyên tắc dân chủ căn bản đó.
  Thật vậy, điều 4 trao độc quyền chính trị cho đảng CSVN, khái niệm
  tập trung dân chủ lạ lùng của Lenin buộc mọi cơ cấu hạ tầng phải
  phục tùng quyền lực của trung ương, Mặt Trận Tổ Quốc chọn ứng cử
  viên trước khi bầu cử dùm cho đảng CSVN, doanh nghiệp nhà nước ưu
  thắng doanh nghiệp tư nhân và kinh tế phải theo định hướng xã hội
  chủ nghĩa. Nếu chúng ta suy tư thêm
  về câu trích dẫn của James Madison, thì hình như câu này đưa đến kết
  luận rằng quyền được biết của nhân dân biến thiên thuận chiều với
  các quyền tự do dân chủ. Dân chủ càng cao thì sự hiểu biết của
  người dân về các quyết định của chính quyền càng rộng mở. Chính vì thế, câu hỏi tiếp theo là: phải làm gì để đem lại
  dân chủ cho Việt Nam? Hầu để cho dân chủ và dĩ
  nhiên quyền được biết của nhân dân được hình thành, chúng ta phải
  có, không những sự công nhận vô điều kiện trên pháp lý những nguyên
  tắc dân chủ, mà quan trọng không kém, những định chế dân chủ phải
  được hình thành. Dưới sự cai trị của CSVN,
  những định chế như thế hoàn toàn bị cấm đoán. Không có chính đảng
  đối lập nào để chất vấn các quyết định của CSVN, đảng và chính
  quyền là một, không có tư pháp độc lập, không có ủy ban bầu cử
  độc lập và không có bầu cử độc lập. Các ứng cử viên được Mặt
  Trận Tổ Quốc chọn trước, CSVN kiểm soát ba ngành của chính quyền,
  mọi cơ quan truyền thông là của chính quyền và do chính quyền tài
  trợ. Trong những điều kiện như thế, thay vì minh bạch và có trách
  nhiệm, nhà nước Việt Nam mờ đục và vô trách nhiệm. Dựa theo lời của Lord
  Acton, quyền lực lũng đoạn và quyền lực tuyệt đối lũng đoạn tuyệt
  đối. Đảng CSVN thối nát tham nhũng tận răng. Toàn dân đều biết đảng
  CSVN đã bán chủ quyền quốc gia cho đảng CSTQ, hầu mua chuộc quyền
  lực chính trị và ngân lượng cho lãnh đạo đảng. Tầm mức của sự bán nước
  này chắc là vô cùng sâu thẳm và với sự vươn lên của thời đại tin
  học, nhân dân muốn biết. Tuy nhiên, sự hiểu biết này chỉ đến với
  nhân dân qua xác chết của đảng CSVN và hàng ngũ lãnh đạo cao nhất.
  Bây giờ họ đang chiến đấu để bảo vệ sự sống còn. Thế kỷ 21 hứa hẹn một
  cuộc chiến hoành tráng giữa nhân dân Việt Nam và đảng CSVN liên hệ
  đến vấn nạn quyền hiểu biết thông tin của nhân dân. Và khi người dân thực sự
  biết, thì đảng CSVN đã cáo chung và chui tuột vào thùng rác của
  lịch sử, nói theo từ của chính Vladimir Ilich Lenin vậy. |