Vai Tṛ Quân Đội và Các Lực Lượng An Ninh
Trong
Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Việt Nam
Luật Sư Đào Tăng Dực
Các quốc gia trên địa cầu, từ đông sang
tây, đều có hai nhu cầu căn bản: đó là quốc pḥng và trị an. Quân đội
có trách nhiệm quốc pḥng và công an cảnh sát có trách nhiệm trị an.
Trong một nước dân chủ như Hoa Kỳ, chịu
ảnh hưởng của các tư tưởng gia khai quốc công thần, đặc biệt là Samuel Adams
(1722-1803) và Alexander Hamilton (1755-1804) th́ quân đội chịu sự điều khiển
của một chính quyền dân sự. Tổng thống Hoa Kỳ là tổng tư lệnh quân lực
(commander-in-chief) của các lực lượng vơ trang Hoa Kỳ. Các lực lượng an ninh
từ tiểu bang đến Liên Bang như cảnh sát tiểu bang, cảnh sát liên bang hoặc FBI
cũng chịu quyền điều khiển của các chính quyền dân cử các cấp.
Các quốc gia dân chủ trên thế giới, từ
tổng thống chế như Hoa Kỳ, đến quốc hội chế như Anh Quốc, hoặc mô thức hỗn hợp
như Pháp, đều chấp nhận nguyên tắc các lực lượng vũ trang và an ninh phải chịu
sự điều khiển của chính quyền dân sự.
Trong các nước dân chủ th́ có sự cộng
sinh giữa nhiều chính đảng và lực lượng chính trị khác nhau, luân phiên nắm
quyền qua các cuộc bầu cử tự do và trong sáng. Dù chính quyền có thay đổi th́
các lực lượng quân đội và an ninh vẫn phải phục tùng chính quyền tân lập, triệt
để thuận theo ḷng dân. Quân đội và các lực lượng an ninh không trung thành với
bất cứ một cá nhân hoặc đảng phái nào. Họ chỉ trung thành và bảo vệ tổ quốc,
qua sự quy định của một bản hiến pháp dân chủ thực sự.
Tuy nhiên, trong một thể chế độc tài
th́ vai tṛ của quân đội và công an không c̣n là trung thành và bảo vệ tổ quốc
nữa. Lư do là v́, hơn ai hết, các chế độ độc tài ư thức ṭan diện vai tṛ của
quân đội và công an như là những phương tiện tuyệt vời để cướp chính quyền và
nắm giữ chính quyền lâu dài.
Trong lịch sử loài người, các chính
quyền độc tài, ngay từ thủa b́nh minh của nhân loại, đều thiện nghệ trong việc
duy tŕ quyền lực độc tôn của ḿnh bằng hai phương tiện chính. Đó là quân đội
và công an.
Dĩ nhiên c̣n rất nhiều phương tiện khác
các chế độ này sử dụng. Chẳng hạn kiểm soát thông tin, giới hạn sự đi lại,
nghiêm cấm không được tụ tập mà không có xin phép và được cho phép trước, hệ
thống ṭa án hoàn toàn do hành pháp kiểm soát, suy tôn và thần tượng hóa lănh
tụ v..v..
Tuy nhiên quân đội và công an là những
phương tiện chính và được Đức Quốc Xă, dưới sự lănh đạo của nhà độc tài khét
tiếng Hitler, rèn luyện và sử dụng tuyệt luân. Quân đội Đức (Wehrmacht) là công
cụ hùng mạnh để Hitler xâm chiếm các nước Âu Châu khác, xây dựng bá quyền. Công
an mật vụ vơ trang (SS) được sử dụng, không những để kiểm soát dân chúng và mọi
thành phần khác của xă hội dân sự, mà không kém phần quan trọng, là để kiểm
soát quân đội và các tướng lănh có tham vọng khác.
Tuy nhiên, không có chế độ độc tài nào
sử dụng quân đội và công an sâu sắc và hiệu năng, để duy tŕ quyền lực lâu dài
bằng hai nhân vật trùm cộng sản là Lenin và Stalin. Tuy Lenin là người tiên
phong trên phương diện độc tài chuyên chính, nhưng Stalin mới là kẻ mài dũa
phương thức đến độ lạnh lùng, tàn khốc chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Hitler giết 6 triệu người Do Thái vô tội qua các lực lượng an ninh, trong khi
Stalin giết 20 triệu người Nga vô tội qua mật thám Xô Viết. Các chính quyền
cộng sản trên thế giới, từ Trung Quốc, Bắc Hàn đến Việt Nam đều thừa hưởng
truyền thống cai trị bằng công an và quân đội này.
Năm 1991, trước khi Liên Bang Xô Viết
cáo chung, tuy bề mặt Hồng Quân Xô Viết chia rẽ giữa phe ủng hộ Yeltsin (Liên
Bang Nga) và phe ủng hộ nhóm Bát Nhân Bang (Liên Bang Xô Viết) đảo chánh
Gorbachev, đưa Yanayev lên nắm quyền hầu duy tŕ quyền lực của Đảng Cộng Sản
Liên Bang Xô Viết. Nhóm Bát Nhân Bang cố gắng duy tŕ Đảng Cộng Sản Liên Bang
Xô Viết hầu một cách gián tiếp duy tŕ Liên Bang Xô Viết như một thực thể chính
trị.
Tuy nhiên, thực trạng là đa số tướng
lănh của Hồng Quân Liên Xô đều ư thức được rằng, trong LBXV thực sự chỉ có Nga
Sô là gánh vác mọi chi phí của ṭan bộ Hồng Quân Xô Viết và không c̣n kham nổi
chi phí quá lớn lao nữa. Họ cảm thấy họ chỉ yêu và trung thành với Liên Bang
Nga. Đối với họ, Liên Bang Xô Viết là một thí nghiệm điên rồ, phung phí, thất
bại và đă đến lúc phải cáo chung.
Không c̣n sự ủng hộ của Hồng Quân Xô
Viết, phe đảo chánh Bát Nhân Bang và Đảng Cộng Sản LBXV tan ră. Lần lượt các
cộng ḥa khác nhau trong LBXV nhanh chóng thay phiên tuyên bố độc lập.
LBXV không c̣n hiện hữu và Gorbachev
bắt buộc phải từ chức tổng thống của một thực thể chính trị đă cáo chung vào
cuối năm 1991.
Việc đầu tiên dân chúng Liên Xô làm sau
khi lật đổ Bát Nhân Bang là đạp đổ tượng của ông tổ KGB là Felix Dzerzhinsky,
người sáng lập công an mật vụ KGB năm 1917.
Điểm tương đồng chúng
ta nhận thấy trong mọi cuộc nổi dậy của quần chúng đạp đổ độc tài, từ xưa đến
nay là, tuy các chế độ độc tài có tính công an trị, nhưng mật vụ và công an lại
ḥan ṭan vắng bóng trong các biến động có tính quần chúng này. Chỉ có quân đội
là giữ một vai tṛ then chốt. Đây là một hiện tượng cần được phân tách và lư
giải để có thể rút kinh nghiệm cho một cuộc nổi dậy tại
Viêt Nam trong tương lai.
Cách đây vài năm (2010-2013), cuộc cách
mạng Mùa Xuân Á Rập (Arab Spring) tại các nước Bắc Phi và Trung Đông như
Tunisia, Ai Cập (đă thành công), Lybia, Bahrain, Yemen, Marocco, Saudi Arabia
...cho ta các nhận xét sau đây:
1. Các quốc gia này đều
độc đảng trên thực tế hoặc trên nguyên tắc, hoặc quân chủ chuyên chế. Các chính
quyền đă tại vị từ nhiều thập niên qua mà không có bầu cử tự do. Các cuộc bầu
cử phần lớn là gian lận hoặc “đảng cử dân bầu” tương tự Việt Nam. Các quốc
hội thông thường là quốc hội bù nh́n cũng tương tự ViệtNam.
2. Có ba thanh phần xă
hội liên hệ chặc chẽ với nhau và được phân phát của cải vượt lên trên những
thành phần xă hội khác: đảng viên (hoặc ḥang gia), giới lănh đạo quân đội và
công an. Những thành phần này giầu có cỡ quốc tế trong những xă hội c̣n nghèo
khổ. Hố sâu giữa người dân lao động, nông dân và 3 thành phần thượng lưu trên
ngày càng đậm nét thêm.
3. Dân chúng căm phẫn
công an nhiều hơn là căm phẫn quân đội, mặc dầu dân chúng đánh giá quân đội như
là yếu tố có tính quyết định cao hơn công an cho sự thành công hay thất bại của
các cuộc cách mạng. Tuy công an là công cụ hữu hiệu để kiểm sóat và đàn áp,
nhưng một khi dân chúng đă hết sợ và đứng lên, th́ công an được đánh giá như
không c̣n khả năng đối phó nữa.
4. Thực tế cho thấy
rằng, mặc dầu quân đội có khả năng đàn áp dân chúng và giải tán biểu t́nh,
nhưng quân đội tại Tunisia và Ai Cập đă đứng hẳn về phía dân tộc và ủng hộ
những cải cách dân chủ thay v́ tiếp tục trung thành với các thể chế độc tài.
5. Cường độ chống đối
chính quyền trong những quốc gia có quá tŕnh cải cách dân chủ thực sự (
Marocco, Jordan) thấp hơn cường độ chống đối tại những quốc gia có chính quyền
bảo thủ và tham quyền cố vị (Tunisia, Egypt, Yemen, Bahrain, Saudi Arabia).
Điều này chứng tỏ một chân lư mà người cộng sản Trung Quốc lẫn
Việt Nam luôn chối bỏ. Đó là một quốc gia càng dân chủ th́ càng ổn
định trên phương diện chính trị. Duy tŕ các chính quyền độc tài tại Trung Quốc
cũng như Việt Nam, về lâu về dài, sẽ đưa đến những bất ổn sâu xa cho quốc gia,
khu vực và cho nền ḥa b́nh thế giới. Dân chủ hóa Trung Hoa,
Việt Nam và Bắc Hàn sẽ đóng góp vô cùng lớn lao cho ḥa b́nh nhân
lọai trong thế kỷ 21.
Có hai câu hỏi chúng ta cần nêu ra:
1. Chế độ CSVN gần gũi
với mô thức độc tài nào nhất trong lịch sử ḷai người?
2. Trong tiến tŕnh dân
chủ hóa Việt Nam, quân đội và công an sẽ có vai tṛ ǵ?
Khi chúng ta duyệt lại lịch sử thành
lập các đảng CSVN (1930) và CSTQ (1921) th́ chúng ta nhận xét ngay rằng đảng
CSVN ngay từ đầu đă lệ thuộc rất nhiều vào Đệ Tam Quốc Tế dưới sự lănh đạo của
đảng CS Liên Xô. Ở điểm này, CSVN và CSTQ hoàn toàn khác nhau.
Khi mới thành lập th́ người CSVN lấy
tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên sau đó th́ theo chỉ thị của CS
Liên Xô, Ông Hồ Chí Minh phải đổi tên lại là Đảng CS Đông Dương, bao gồm Lào và
Cam Bốt. Điều này cho chúng ta thấy rằng, ngay từ những thập niên 30, CSLX đă e
dè CSTQ và muốn đàn em của ḿnh là CSVN phải ảnh hưởng đến Lào và Cam Bốt để
giới hạn sự bành trướng của TQ.
Dĩ nhiên trong suốt cuộc chiến tranh
Việt Nam (1962-1975), Ông Hồ Chí Minh được sự viện trợ của cả 2 đàn
anh CS qua chính sách đu dây khéo léo. Tuy nhiên ảnh hưởng của CSLX vẫn vượt
trội CSTQ cho đến ngày Liên Bang Xô Viết sụp đổ.
Tuy cùng là độc tài chuyên chính vô
sản, nhưng có những sự khác biệt cơ bản trong phương thức cai trị độc tài của
hai đảng CS đàn anh khổng lồ trên.
Trước hết, trước khi cuộc cách mạng
Bolshevik thành công tại Nga năm 1917 th́ Nga Ḥang cai trị đế quốc
Nga bằng một bộ máy công an sắt máu. Chính Lenin là người chịu nhiều khốn đốn
v́ guồng máy công an của Nga Ḥang. Ngay sau khi vừa cướp được chính quyền năm
1917, việc đầu tiên của Lenin là giao cho Felix Dzerzhinsky trách nhiệm thành
lập một hệ thống mật vụ siêu quyền lực, tuyệt đối trung thành với ông và có
trách nhiệm đè bẹp tất cả mọi đối lập bằng tất cả mọi phương tiện dù là bá đạo
nhất. CSXV là một chế độ CS mang tính công an trị. Yếu tính này được chứng minh
nổi bật khi chúng ta duyệt lại tranh chấp nội bộ giữa Stalin và Trotsky sau khi
Lenin qua đời (1924). Trotsky không những đă là Bộ Trưởng Quốc Pḥng
(1918-1925) mà c̣n chính là người được Lenin giao cho trách nhiệm sáng lập và
chỉ huy hồng quân Liên Xô. Trotsky cũng được công nhận là lư thuyết gia CS sáng
giá nhất sau Lenin.
Trong khi đó Stalin là tổng bí thư
đảng, lúc đó chưa phải là một chức vụ tối quan trọng v́ Lenin giữ chức vụ tương
đương chủ tịch nước (tức Hội Đồng Bộ Trưởng- Council of People’s Commissars) và
uy tín của Lenin bao trùm đảng và nhà nước. Tuy nhiên Stalin kiểm sóat mật vụ
KGB. Qua mật vụ KGB, Stalin đă đánh bật Trotsky ra khỏi trung tâm quyền lực.
Cuối cùng Trotsky phải lưu vong và bị KGB ám sát tại Mễ Tây Cơ.
V́ thế, theo mô h́nh Liên Xô th́ kẻ nào
nắm được mật vụ KGB sẽ nắm được đảng và quyền lực tuyệt đối.
Trong khi đó, t́nh h́nh tại Trung Quốc
khác hẳn. Đảng CSTQ sống c̣n và vươn lên trong khung cảnh hai cuộc chiến đẫm
máu. Đó là, một mặt, cuộc nội chiến quốc cộng giữa Đảng CSTQ và Trung Hoa Quốc
Dân Đảng dưới sự lănh đạo của Tưởng Giới Thạch. Mặt kia là cuộc chiến chống lại
sự xâm lăng của Nhật Bản chiếm cứ Măn Châu và nhiều cứ điểm khác.
Sau khi đảng CSTQ được thành lập, Stalin
cũng đă gởi rất nhiều cán bộ do CSLX huấn luyện để tranh giành quyền lực trong
nội bộ đảng CSTQ với mục đích lọai Mao Trach Đông và phe nhóm của ông ra khỏi
trung tâm quyền lực. Tuy nhiên Mao Trạch Đông, ng̣ai sự kiện là một tư tưởng
gia có nhiều sáng tạo, ông c̣n là một thiên tài quân sự. Ông đă chỉ huy cuộc
vạn lư trường chinh lịch sử, thóat khỏi sự truy kích của Tưởng Giới Thạch, xây
dựng cơ sở, củng cố quân lực, góp phần vào việc đánh đuổi quân đội Nhật và sau
cùng chiến thắng Tưởng Giới Thạch, thống trị lục địa Trung Quốc. Dĩ nhiên Mao
Trạch Đông cũng không quên thanh trừng và tận diệt bè phái do Stalin cấy vào
nội bộ CSTQ.
Trong cuộc vạn lư trương chinh, ông
thường được gọi là Mao Chủ Tịch, không phải v́ ông là chủ tịch đảng, hoặc chủ
tịch nhà nước, v́ lúc đó chưa có 2 chức vụ này. Ông được gọi là Mao Chủ Tịch v́
Ông là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương (UBQQTU), hoặc Quân Ủy Trung Ương, tương
đương với chức vụ tổng tư lệnh quân lực ngày hôm nay.
Chính v́ truyền thống này, căn bản
quyền lực của hai đảng CSTQ và đảng CSLX hoàn toàn khác nhau.
Trong đảng CSTQ, kẻ nào nắm được quân
đội sẽ nắm được đảng và sau đó chính quyền. Công an chỉ là một công cụ phụ
thuộc để kiểm soát dân chúng mà thôi.
Chính v́ lư do đó, chúng ta thấy Đặng
Tiểu B́nh chỉ giữ một chức vụ phó thủ tướng tương đối khiêm nhượng trong chính
quyền, nhưng vẫn được suy tôn là lănh tụ tối cao (paramount leader), ra lệnh
cho Thủ Tướng Lư Bằng và Chủ Tịch Đảng Triệu Tử Dương. Then chốt là vào thời
điểm Thiên An Môn 1989 đó, Đặng Tiểu B́nh giữ chức vụ chủ tịch Ủy Ban Quân Quản
Trung Ương như Mao Trạch Đông đă từng giữ. Cũng trong chức vụ bày, họ Đặng đă
ra lệnh quân đội đàn áp đẫm máu tại công trường Thiên An Môn, cứu đảng CSTQ.
Các lực lượng quân đội tại thủ đô Bắc
Kinh đă từ chối không chịu nghe lệnh. Họ Đặng phải triệu quân đ̣an 27 từ miền
Bắc Trung Quốc, gần Ngọai Mông về. Các binh sĩ này không nói được thổ ngữ Bắc
Kinh, không hiểu được ư dân và bị tuyên truyền phải đàn áp phản lọan. Chính sự
thiếu thông cảm giữa các binh sĩ và người dân biểu t́nh đă cứu chế độ CSTQ.
Sau khi LBXV sụp đổ, tuy CSVN có xích
lại gần TQ nhưng đó chỉ là trên phương diện cải tổ kinh tế và ngọai giao. Trên
b́nh diện tương quan quyền lực nội bộ, CSVN vẫn theo mô h́nh của Liên Xô thủa
xưa.
Từ khi thành lập, đưới ảnh hưởng của
Liên Xô, các phe công an luôn luôn lấn quyền quân đội. Từ Lê Duẫn, Lê Đức Thọ
đến Nguyễn Tấn Dũng và Trần Đại Quang hôm nay đều xuất phát từ công an. Tướng
Lê Khả Phiêu chỉ nắm quyền một thời gian ngắn là bị truất phế.
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp lúc sinh tiền
và những lận đận buồn cười của ông ta là ví dụ điển h́nh nhất cho vị trí lép vế
của quân đội so với công an trong nội bộ CSVN.
Như thế th́ trong trường hợp xảy ra
biến động quần chúng nổi dậy tại Việt Nam như Thiên An Môn(1989) tại Trung Quốc
hoặc tại Bắc Phi hôm nay th́ quân đội và công an sẽ giữ vị trí nào?
Chúng ta nhận ngay rằng, sau Thiên An
Môn, các chiến lược gia CSVN đă nghiên cứu bài học này. Họ thấy rằng, tuy công
an là công cụ quan trọng để kiểm soát, hù dọa dân chúng và ngăn cản sự nổi dậy
của người dân, nhưng lực lượng công an tự bản chất có nhiều khuyết điểm như một
công cụ của độc tài.
Trước hết, muốn kiểm sóat dân th́ công
an phải gần với dân. Điều này hàm chứa nhiều hiểm nguy cho chế độ:
1. Trước hết là gần dân
th́ dễ bị tha hóa qua hối lộ hoặc những biện pháp tham nhũng khác.
2. Sau đó v́ gần gũi sẽ
có những quan hệ riêng tư, dân chúng lờn mặt và không c̣n sợ hăi.
3. Công an dễ bị nhận
diện và có thể bị trả thù cá nhân. Công an trong các chế độ độc tài bị dân phục
kích và đánh hội đồng là chuyện thường xảy ra.
4. Một trong những trách
nhiệm của công an là kiểm sóat những thông tin về dân chủ và nhân quyền không
cho lọt vào tai dân chúng. Nhưng chính các công an lại hiểu biết thêm về dân
chủ và nhân quyền nên dễ bị tha hóa như là một công cụ đàn áp.
5. Kinh nghiệm trên khắp
thế giới cho thấy, một khi quần chúng đă vượt qua sự sợ hăi đứng lên, th́ công
an triệt để trốn tránh và biến mất ṭan diện. Ngay cả tại Thiên An Môn hoặc tại
Bắc Phi, những kẻ bị quần chúng nghi ngờ là công an trá h́nh bị người dân đánh
đập đến chết không thương tiếc.
V́ ư thức được khả năng đàn áp các cuộc
nổi dậy có tính quần chúng của quân đội, vượt trội trên công an, nên CSVN đă có
những cố gắng để nâng số đại diện quân đội trong Trung Ương Đảng và Bộ Chính
Trị sau Thiên An Môn. Điển h́nh nhất là Thượng Tướng Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí
Thư (1997-2002).
Các lănh tụ CSVN cũng thường xuyên thăm
viếng Vơ Nguyên Giáp trong tuổi già, trao thêm huy chương, quà cáp, tưởng
thưởng vv... để lấy ḷng giới quân đội. Sau khi Vơ Nguyên Giáp từ trần th́ t́m
cách thần tượng hóa ông lên chín tầng mây để núp bóng quân đội.
Thêm vào đó, Đại Hội 11 của đảng đă
giao Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng giữ luôn chức vụ bí thư Quân Ủy Trung Ương
(QUTU), trong niềm hy vọng củng cố thêm sự kiểm sóat của đảng hầu hy vọng quân
đội sẽ nghe lệnh đảng, đàn áp những cuộc nổi dậy của dân chúng trong tương lai.
Đây là một mô thức CSVN học hỏi từ kinh
nghiệm của Đặng Tỉêu B́nh.
Tuy nhiên CSVN quên một điều căn bản.
Đó là muốn làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực trên nguyên tắc th́ dễ. Chỉ cần đảng bổ
nhiệm là được. Tuy nhiên, trên thực tế, trước khi làm chủ tịch Ủy Ban Quân Quản
Trung Ương th́ Mao Trạch Đông lẫn Đặng Tiểu B́nh đều là những tướng lănh vào
sanh ra tử thật sự trên chiến trường Trung Quốc. Khác với Giang Trạch Dân và Hồ
Cẩm Đào của Trung Quốc bây giờ, lại càng khác với Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam
hôm nay chưa bao giờ là một quân nhân tướng lănh thực sự cả.
Trong trường hợp dân chúng nổi dậy, đ̣i
hỏi dân chủ, liệu các tướng lănh chuyên nghiệp CSVN có nghe lệnh ông “Tổng Tư
Lệnh” Nguyễn Phú Trọng hay một tổng bí thư nào khác (nếu không phải tướng lănh
quân đội) sau Đại Hội 12 hay không vẫn c̣n là một vấn nạn chưa có câu trả lời
của CSVN.
Dĩ nhiên trong ḥan cảnh Việt Nam,
trước sức mạnh của dân chúng, đám công an của Trần Đại Quang sẽ trốn chui trốn
nhủi như công an của tất cả mọi chế độ độc tài khác. Nếu các lực lượng quân đội
không nghe lệnh để đàn áp dân chúng như tại Tunisia và Ai Cập th́ Nguyễn Phú
Trọng sẽ không c̣n khả năng điều động để đàn áp như Đặng Tiểu B́nh đă làm tại Thiên
An Môn.
Tôi không nghĩ rằng có xác xuất cao để
CSTQ gởi quân đội TQ đàn áp dân chúng tại Việt Nam hầu cứu chế độ
CSVN và tự cứu ḿnh trong tương lai. Tuy nhiên, quan điểm trên không có giá trị
tuyệt đối. Khi một chế độ độc tài đă quen ngự trị trên đầu cổ các dân tộc liên
hệ, th́ không có điều ǵ họ không thể làm để duy tŕ quyền lực, kể cả những
điều tồi bại nhất. Chúng ta cũng không thể hoàn toàn lọai trừ xác xuất CSVN cầu
cứu, và CSTQ gởi quân trực tiếp đàn áp các cuộc biểu t́nh đ̣i hỏi dân chủ trong
tương lai.
Nếu t́nh huống tệ hại đó xảy ra, liệu
các tướng lănh quân đội nhân dân Việt Nam có đủ hùng tâm tráng chí đứng lên,
đứng hẳn về phía ṭan dân, lật đổ bạo quyền CSVN và trực diện đối đầu với đ̣an
quân xâm lược Trung Quốc, c̣n là một vấn nạn chưa có giải đáp.
Tuy nhiên, có một điều giới lănh đạo
CSVN và tướng lănh quân đội nhân dân VN cần lưu ư là trong kỷ nguyên mới, cục
diện thế giới đă thay đổi. Một trong những lư do nhà độc tài Gaddafi sụp đổ là
v́ ngày 18/3/11, Hôi Đồng Bảo An LHQ đă quyết định cho phép mọi biện pháp cần
thiết để ngăn chận bạo quyền Gaddafi giết hại dân lành, bắt đầu bằng một “vùng
cấm phi vụ” (no fly zone) (the imposition of
a no-fly zone and authorisation of "all necessary means" to protect
civilians).
Ngay cả Nga Sô và Trung Quốc, tuy không
ủng hộ nhưng cũng không phản đối quyết định này. Ngày 19/3/11 sau đó, Hoa
Kỳ, Anh Quốc và Pháp đă oanh tạc các vị trí của Gaddafi. Hầu như có sự đồng
thuận giữa mọi quốc gia văn minh trên thế giới, qua lời phát biểu của thủ tướng
Anh là David Cameron: “Chúng ta không thể đứng yên nh́n một nhà độc tài tàn
sát dân của chính ḿnh” ('we should not
stand aside while a dictator murders his people'). (http://www.dailymail.co.uk/news/article-1367800/Libya-British-troops-action-Libya-says-David-Cameron)
Cuộc nổi dậy chống độc tài của các dân
tộc Bắc Phi và Trung Đông đă đưa nhân lọai văn minh bước vào một ngưỡng cữa
mới. Đó là thế giới văn minh sẽ không dung túng cho bạo quyền sát hại dân của
chính quốc gia ḿnh. Trong kỷ nguyên mới, Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế (International
Criminal Court) có thẩm quyền truy tố và xét xử tất cả mọi kẻ phạm tội chống
lại nhân lọai (crimes against humanity), dù kẻ đó là Đặng Tiểu B́nh (nếu c̣n
sống), hoặc cựu thủ tướng TQ Lư Bằng của đàn anh TQ liên hệ đến Thiên An Môn.
Huống hồ là một Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Hồng Anh, Nguyễn Phú Trọng, Phùng
Quang Thanh, Trần Đại Quang hoặc bất cứ một lănh tụ CSVN nào đă sát hại đồng
bào trong quá khứ như biến cố Tết Mậu Thân tại Huế, lạm sát trong các trại cải
tạo sau 30/4/75, hoặc ra lệnh tàn sát dân chúng nổi dậy đ̣i hỏi dân chủ trong
tương lai tại Việt Nam.
Những lạm sát của CSVN trong quá khứ
lẫn những cuộc lạm sát đàn áp dân chúng biểu t́nh để bảo vệ độc tài đảng trị
trong tương lai, trên nguyên tắc, hội đủ điều kiện để được định nghĩa như là
tội ác chống nhân lọai và nằm trong thẩm quyền của Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế.
Dân ta đă nếm nhiều niềm quốc nhục. Đất
nước chúng ta là một trong những quốc gia nghèo nhất và tham nhũng tệ hại nhất.
Đất đai và vùng biển cũng như hải đảo của chúng ta bị cường quyền CSTQ chiếm cứ
với sự đồng lơa của CSVN. Tuy nhiên trong kỷ nguyên mới, không có niềm quốc
nhục nào lớn lao bằng cái nhục bị một tập đoàn độc tài cai trị và coi thường sự
thông minh của dân ḿnh.
Nhất là, trong kỷ nguyên mới, cũng
không có nỗi nhục nhă nào lớn lao cho cá nhân và tập thể của bất cứ quân đội
của một dân tộc nào, bằng nỗi nhục nhă phải làm công cụ thấp hèn cho một tập
đoàn độc tài hại nước hại dân như đảng CSVN hôm nay.