Vai trò phụ nữ Việt Nam trong tiến trình dân chủ hóa đất nước
Luật Sư Đào Tăng
Dực
Khi so sánh cùng giới đấu tranh Trung Quốc với những nhân vật
đối kháng đại đa số thuộc nam giới, thì điểm nổi bật của phong trào tranh đấu
cho dân chủ và nhân quyền của dân tộc Việt Nam là sự hiện diện đông đảo của những
anh thư hào kiệt như Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Tạ
Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh, cụ Bà Lê Hiền Đức…
Trong khi đó, từ thủa khai sinh nhân loại, người phụ
nữ luôn lại là một giai cấp bị đối xử thiếu công bằng. Nếu chúng ta
nhìn xuyên lịch sử từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á đến Phi Châu, người
phụ nữ thông thường chỉ là công dân hạng nhì, trong xã hội do đàn ông
ngự trị, thuộc xã hội truyền thống.
Theo quan điểm của cá nhân tôi, một chính quyền Việt Nam hậu
cộng sản, sau khi đã xây dựng một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên
cho đất nước, nếu không giải quyết được vấn nạn bạo hành trong gia đình (family
and domestic violence), trong đó đa số các nạn nhân là phụ nữ, thì chính quyền
đó vẫn chưa xứng đáng là một chính quyền của dân, do dân và vì dân (government
of the people, by the people and for the people).
Nếu chúng ta phân tích thêm về nguyên nhân của bất
công này, sẽ có hai nguyên nhân chính nổi bật xuyên suốt lịch sử: đó
là chiến tranh và tôn giáo. Dĩ nhiên còn nhiều nguyên nhân khác không
thể nói hết.
Chiến tranh, nhất là chiến tranh cổ điển, luôn luôn
đem lợi thế về cho nam giới. Khi xã hội loài người còn đơn sơ chưa
phát triển, chiến tranh căn cứ trên sức mạnh của bắp thịt. Chính vì
thế giới nữ thường chịu lép vế, nương tựa vào sự bảo vệ của giới
nam và chấp nhận những việc làm phụ thuộc tại hậu cần. Khi kỹ
thuật chiến tranh tiến bộ hơn, với những phát triển khoa học về vũ
khí có hỏa lực và tầm sát thương cao, vai trò của nam giới vẫn nổi
bật, mặc dầu có sự tham gia nhiều hơn của các nữ quân nhân (Do thái
là một ví dụ điển hình nhất cho vao trò của các nữ quân nhân). Tuy
nhiên vẫn thua xa nam giới. Lý do là vì nhiều người tin rằng, trong DNA
của nam giới, bản năng sát thương và sát địch mạnh hơn nữ giới.
Chính vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng, chiến tranh là một
trong nhiều nguyên nhân củng cố cho vai trò vượt trội của nam giới,
trong tương tranh quyền lực giữa hai phái tính.
Thủa xưa, phụ nữ thường trở thành những vật hy sinh,
vật tế thần hoặc trở thành chiến lợi phẩm của kẻ chiến thắng.
Trong thời chiến, bất công cho nữ giới là như thế.
Câu hỏi là, trong thời thái bình thịnh trị, thì nữ giới có được
đối xử công bằng hơn hay không?
Theo tôi nghĩ câu trả lời không những là không, mà
còn tệ hại hơn nữa.
Đáng ngạc nhiên hơn hết là lý do người nữ bị đối
xử bất công nằm nơi các định chế tôn giáo. Nơi đây, tôi xin nhấn mạnh
sự khác biệt giữa tôn giáo (religions) và các định chế tôn giáo
(religious institutions).
Tôn giáo là nội dung lời dạy của các đấng giáo chủ
khai giáo như (theo thứ tự thời gian): Bà La Môn (Ấn Độ Giáo), Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Giáo), Đức Lão Tử (Đạo Giáo), Đức Khổng
Phu Tử (Nho Giáo), Đức Chúa Giê Su (Thiên Chúa Giáo), Đức Mahomet (Hồi
Giáo), Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ (Phật Giáo Hòa Hảo) , Đức Ngô Văn Chiêu
(Cao Đài Giáo) ...thông thường là những lời dạy cao cả và công bằng.
Các định chế tôn giáo trái lại, là các cấu trúc
quyền lực, do những người bình thường tạo ra hầu đoàn ngũ hóa và hệ thống
hóa các tôn giáo. Các định chế này đôi khi có rất nhiều khuyết điểm.
Tùy theo bản chất từng tôn giáo, và hoàn cảnh xã hội sở tại, các
định chế tôn giáo có sức mạnh và ảnh hưởng khác nhau. Khi duyệt xét
lịch sử, chúng ta nhận thấy các định chế tôn giáo sau đây nhiều
quyền lực nhất: Giai Cấp Giáo Sỹ Bà La Môn, Tòa Thánh Công Giáo La
Mã tại Âu Châu, Giáo hội Chính Thống Giáo tại Nga, Giai cấp Tống Nho
tại Trung Hoa và các nước Đông Á, Giai cấp Giáo Sỹ Hồi Giáo tại Iran
và một số quốc gia Hồi Giáo.
Một trong những bất công mà nữ giới phải chịu là:
không những các vị giáo chủ đều là nam giới, mà quan trọng hơn hết
là các định chế quyền lực, còn tồn tại lâu đời sau khi các giáo
chủ đã ra đi, đều do nam giới thống lĩnh.
Hâu quả là các định chế ấy không những trực tiếp
có những chính sách tôn giáo trói buộc người phụ nữ, mà còn ảnh
hưởng đến xã hội dân sự và chính quyền. Hậu quả là toàn bộ các
chính sách quốc gia và toàn bộ nền văn hóa của quốc gia sở tại,
thiên vị cho nam giới.
Những câu châm ngôn sau đây của Nho Giáo, lưu truyền
hàng ngàn năm trong nền văn hóa Đông Á, tiêu biểu cho sự bất công đó:
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử”.
Đại ý nói rằng, người phụ nữ trước khi lấy chồng
thì phải nghe lời cha (không phải mẹ). Khi lấy chồng phải nghe lời
chồng (không được cãi) và tệ hơn hết là khi chồng chết phải nghe lời
con trai (không phải ngược lại hoặc nghe lời con gái).
Hoặc:
“Lấy chồng theo chồng; lấy gà theo gà, lấy chó theo
chó”, không có quyền phê phán hành vi của chồng hoặc ly dị ly thân
nếu người chồng không xứng đáng.
Tất cả những giáo điều trên, đều là những giáo
điều có tính ý thức hệ, cùng một bản chất hạn hẹp và phi lý, như
ý thức hệ giáo đều Mác-Lê mà CSVN đang tôn sùng.
Chính vì thế, giới nữ, vốn chịu nhiều bất công, có
nhu cầu làm cách mạng cao hơn nam giới.
Khi nữ giới tham gia cuộc đấu tranh giải trừ cộng
sản, vai trò của họ không dừng tại nơi đây. Vai trò của nữ giới không
những là lật đổ bạo quyền, mà còn xây dựng một trật tự xã hội mới
hoàn toàn khai phóng trên phương diện tư tưởng. Châm ngôn của những phụ
nữ tranh đấu ngày hôm nay phải là câu tuyên ngôn bất hủ của tư tưởng
gia người Pháp Raymond Aron:
“Ý thức hệ giáo điều cần phải triệt tiêu, hầu cho
tư tưởng được tái sinh”
Thật vậy, ý thức hệ giáo điều Tống Nho đã tiêu
diệt tư tưởng tự do của con người Đông Á, giam hãm sự sáng tạo
(creativity) và nữ giới (womenfolk) trong sự cùm kẹp của giáo điều ngu
muội, làm chậm bước tiến của nhiều dân tộc Đông Á, cho đến khi rơi
vào vòng nô lệ và sự chinh phục của các đế quốc tây phương.
Chiều cao của một dân tộc lệ thuộc vào phẩm chất của
những tư tưởng luân lưu trong nền văn hóa dân tộc đó. Một nền văn hóa
lệ thuộc vào những ý thức hệ giáo điều kém cỏi như Tống Nho, và
sau đó, lệ thuộc vào những ý thức hệ giáo điều càng kém cỏi hơn
nữa như Mác-Lê, là một nền văn hóa với những tư tưởng tồi tệ nhất
của nhân loại. Dân tộc Việt kém cỏi và chịu nhiều nỗi nhục nhằn
ngày hôm nay, là vì Ý thức hệ giáo điều Mác- Lê đã thổi vào nền
văn hóa chúng ta những tư tưởng thấp hèn nhất của nhân loại.
Trách nhiệm của người phụ nữ Việt Nam là đứng lên,
đạp đổ bạo quyền CSVN. Và cùng một lược với tác động cách mạng
này, dùng chút oai thừa, xóa tan những tàn tích của giáo điều Tống
Nho oan khiên, đã giam hãm tâm thức và sự sáng tạo của nữ giới trong
nhiều thế kỷ.
Ý thức được như
thế, người phụ nữ Việt Nam mới nhận ra vị trí chiến lược của mình,
trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Lý tưởng của người phụ nữ
Việt Nam không những chỉ là xây dựng một chế độ chính trị dân chủ
hiến định, pháp trị và đa nguyên, mà phải đi xa hơn nữa, đó là gạn
lọc những cặn bã của nền văn hóa truyền thống, khai sáng một kỷ
nguyên văn hóa hoàn toàn khai phóng, phi ý thức hệ giáo điều trong
đó, tư tưởng được tuyệt đối thăng hoa.
Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã giúp người phụ nữ Tây
Phương đạt nhiều thành quả trong công cuộc tranh đấu cho phụ nữ quyền.
Tiến trình dân chủ hóa đất nước chắc chắn sẽ đưa đến một cuộc cách
mạng kỹ nghệ, kinh tế và xã hội tại Việt Nam, hầu bắt kịp các
quốc khác trong cộng đồng nhân loại.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy, phụ nữ Việt Nam đã
nhập cuộc đông đảo. Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương
Uyên, Cụ Bà Lê Hiền Đức, Huỳnh Thục Vy, các chị em trong Hội Phụ Nữ
Âu Cơ ..là những nữ lưu hào kiệt, đội trời đạp đất. Chắc chắn các
chị đang và sẽ là những lãnh đạo xứng đáng, trong thời điểm lịch
sử này của dân tộc và trong số họ sẽ có những lãnh đạo tương lai của một nước
Việt Nam dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên hậu cộng sản.
Bài Nguyên thủy viết
cho Đặc San Hội Phụ Nữ Âu Cơ