Luật Sư Đào Tăng Dực
Những Khuyết Điểm Căn Bản Của Luật Pháp Việt Nam
Khi chúng ta đọc báo chí trong và ngoài nước,
nhất là các tờ báo điện tử được phổ biến trên toàn thế giới, chúng ta cảm thấy
rất mừng v́ những người trí thức có lương tâm, từ trong nội bộ đảng CSVN đến những
nhà đối kháng bên trong và ngoài nước, đều có những băn khoăn bức xúc, làm sao để
nâng đất nước lên hàng cường quốc, xă hội trong sạch và cởi mở, nền chính trị dân
chủ chân chính và dân tộc phú cường.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO nhịp độ đóng
góp lại càng tăng tốc. Những đóng góp vào lănh vực tư tưởng của những người trí
thức trong nước như GS Tương Lai, TS Nguyễn
Quang A, Nguyễn Trung, Nguyễn Trần Bạt đều sâu sắc và nghiêm chỉnh. Điều này chứng
tỏ trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, giới sĩ phu của chúng ta bất kể chính
kiến, đều hết ḷng tha thiết với tiền đồ dân tộc
Tuy nhiên, một số vấn nạn căn bản cần phải được
giải quyết thoả đáng trước khi chúng ta có thể chấn chỉnh hiến pháp và luật pháp,
hầu có thể tiến hành công cuộc phục hưng đất nước hiệu năng. Các vấn nạn như:
Liệu Hiến Pháp và Luật Pháp hiện hành có thể:
I.
Làm Thế Nào Để Tiến Hành Công Cuộc Đại Đoàn Kết Dân Tộc?
Đây luôn là câu hỏi tiên quyết trên vành môi
của mọi người. Muốn có một câu trả lời nghiêm chỉnh, chúng ta phải thực tế nhận
định rằng: mọi tương quan giữa người và người đều phải nhất thiết đặt trên nguyên
tắc công bằng và lẽ phải (justice and equity), mới bền vững cùng thời gian. Từ
tương quan giữa các thành phần ruột thịt trong gia đ́nh như cha mẹ, con cái,
anh chị em, cho đến tương quan giữa bạn bè, giữa những đồng bào cùng chủng tộc
trong một quốc gia, giữa những hữu thể pháp lư trong xă hội, giữa chính quyền và
những thành tố khác nhau của xă hội dân sự…đều phải đặt căn cứ trên nền tảng
quan trọng này.
Một cách cụ thể, ngay cả trong phạm vi thiêng
liêng của t́nh phụ tử hoặc mẫu tử, nếu bất cứ nhân tố nào cư xử bất công, mối t́nh
thiêng liêng ấy cũng không bền vững được. Điều này áp dụng luôn cho t́nh yêu
nam nữ, t́nh bạn tri âm và ḷng ái quốc. Nguyên tắc công bằng và lẽ phải lại càng
quan trọng hơn, như là yếu tố nền tảng của bản hiến pháp quốc gia, vốn là rường
cột của đất nước, từ đó mọi trật tự xă hội được xây dựng.
Những sắc luật khác nhau tại Nam Phi, tiền
Mandela, chỉ trao quyền bầu cử cho thiểu số da trắng (14% dân số) trong một quốc
gia có hơn 40 triệu dân tuyệt đại đa số là da đen, trong giai đoạn kỳ thị chủng
tộc (Apartheid từ1948-1994) không thể làm nền tảng cho một xă hội bền vững v́
thiếu công bằng và lẽ phải.
Dĩ nhiên chính quyền da trắng Nam Phi lúc
đó, trên nguyên tắc, cũng mong muốn và đă từng tha thiết kêu gọi mọi thành phần
quốc gia, bất kể màu da, hăy đoàn kết xây dựng đất nước. Tuy nhiên, những người
da đen vẫn không nghe và tổ chức đấu tranh quyết liệt, đ́nh công, băi thị, kể cả
đấu tranh bằng bạo lực. Nhiều vị lănh tụ da đen đă bị chiếu theo luật lệ đương
thời và bị kết án là phản loạn, bị giam giữ và tra tấn.
Hiến pháp CHXHCN Việt Nam năm 1992 và 2013 có
điều 4: trao quyền lănh đạo quốc gia vĩnh viễn cho một chính đảng duy nhất, đó
là đảng CSVN. Tiếp theo, Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội, qui định rơ rệt là Đoàn
Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc VN (cơ quan ngoại vi của đảng CSVN)
có tiếng nói quyết định trong việc giới thiệu người ra ứng cử, và chỉ có người được
giới thiệu mới được ra ứng cử mà thôi. Tính cách hổ tương giữa hiến pháp 1992
cũng như 2013 và Luật Bầu Cử nêu trên, tạo ra hậu quả CSVN tước đi quyền bầu cử và ứng cử của 90
triệu người Việt Nam, đương nhiên trao quyền này cho 3 triệu đảng viên của họ. Giống
như chính phủ kỳ thị chủng tộc Nam Phi, CSVN có thể thiết tha kêu gọi đại đoàn
kết dân tộc để xây dựng đất nước, toàn dân VN vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh quyết
liệt, các nhà bất đồng chính kiến vẫn bị chiếu theo luật lệ hiện hành và bị kết
án là phản động, bị tù đày, bắt bớ.
Cũng như những người da trắng Nam Phi, các đảng
viên CSVN vẫn luôn là thiểu số và toàn dân Việt Nam sẽ chiến thắng. T́nh yêu lứa đôi chân chính chỉ có thể tồn tại
trên căn bản công bằng và lẽ phải, thể hiện qua quyền b́nh đẳng nam nữ và tương
kính. Cho nên muốn thể hiện t́nh nghĩa đồng bào, thực thi đại đoàn kết dân tộc
th́ luật pháp và hiến pháp quốc gia cũng phải thể hiện nghiêm minh.
II.
Làm thế nào để kiến tạo một trật tự xă hội công bằng nhưng đầy đủ
sinh động, để cạnh tranh trên trường quốc tế
Nghệ thuật lănh đạo quốc gia tuy nhiêu khê
và phức tạp, nhưng đặt trọng tâm rất lớn trên khả năng dung hợp hai khuynh hướng
đối nghịch căn bản của xă hội. Đó là khuynh hướng sáng tạo của cải (wealth
creation) và khuynh hướng tái phối trí của cải (wealth redistribution). Khuynh
hướng sáng tạo của cải thông thường (nhưng không nhất thiết) được đồng hóa với
phía hữu khuynh, bảo thủ, cạnh tranh, hoặc tư bản chủ nghĩa. Khuynh hướng tái
phối trí của cải thông thường được đồng hóa với tả khuynh, cấp tiến, công bằng
xă hội, hoặc xă hội chủ nghĩa.
Tại các quốc gia dân chủ trên thế giới chúng
ta có thể xếp loại các đảng phái như sau:
Wealth creation Wealth
redistribution
Hoa Kỳ
Cộng
Ḥa
Dân
Chủ
Anh Quốc Bảo
Thủ
Lao
Động, Dân Chủ
Gia Nă Đại Bảo Thủ
Tự Do, Xanh, Tân Dân Chủ
Úc Đại Lợi Tự Do,
Quốc Gia Lao Động, Dân
Chủ, Xanh
Tân Tây Lan Quốc
Gia
Lao Động,
Xanh
Pháp
Liên
Hiệp Phong- Xă Hội, Cộng
Sản, Xanh
Trào Quần
Chúng
Mặt
Trận Quốc Gia
Đức
Liên
HiệpDân Chủ Xă Hội Dân Chủ, Xanh, Tự
Do dân chủ
Công Giáo,
Một trong những nét đặc thù của nền dân chủ
đa nguyên là mặc dù có nhiều đảng phái khác nhau, nhưng các đảng phái thông thường
có khuynh hướng liên minh hoặc kết hợp để tạo ra hai phe chính. Phe đa số nắm
quyền và phe thiểu số đối lập trong quốc hội chế hay đại nghị chế. Hoặc phe đa
số nắm quốc hội, phe thiểu số là đối lập trong quốc hội. Mặc dù trong nhiều trường hợp tổng thống chế,
phe thiểu số trong quốc hội lại nắm quyền hành pháp như hiện giờ tại Hoa Kỳ.
Hai phe nhóm nắm quyền và đối lập này thường
phản ảnh hai khuynh hướng wealth creation và wealth redistribution.
Một trật tự xă hội quân b́nh không thể vắng
bóng hai khuynh hướng nêu trên, chế độ chính trị dân chủ thật sự luôn luôn hiến
định hoá nguyên tắc đa nguyên đa đảng, như là nền tảng của luật pháp. Người dân không bao giờ chấp nhận một khuynh hướng
hoặc liên minh, hoặc đảng phái chính trị nắm quyền quá lâu dài. Chẳng hạn nếu đảng
Cộng Ḥa tại Hoa Kỳ nắm quyền quá lâu, mặc dù có những chính sách làm cho quốc
gia giàu mạnh, qua sự tập trung tư bản và sáng tạo của cải, tuy nhiên sự bất công
giữa giới giàu và nghèo sẽ gia tăng. Có
thể trong cuộc bầu cử tới dân chúng sẽ bầu đảng Dân Chủ lên nắm quyền, để tái
phối trí tài nguyên quốc gia và giảm đi khoảng cách giữa giai cấp xă hội.
Chế độ dân chủ đa nguyên như thế không những
tạo ra sự cạnh tranh giữa những đảng phái khác nhau, trong khuôn khổ hiến pháp
và luật pháp, luôn luôn nổ lực trau dồi phẩm chất và khả năng phục vụ dân tộc,
hầu đưa quốc gia đi lên trong môi trường tương tranh quyết liệt quốc tế, trong
niềm hy vọng người dân sẽ tin tưởng và tín nhiệm ḿnh qua lá phiếu của họ.
Đă từ lâu nhân loại văn minh cương quyết chối
bỏ thể chế độc tài cộng sản, trừ tại Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn. Chế
độ độc đảng thiếu sinh khí và sáng tạo, đưa quốc gia tụt hậu, làm tṛ cười cho
cả thế giới tự do. Hiến định hoá nguyên tắc dân chủ đa nguyên là một điều kiện
tiên quyết cho hiến pháp quốc gia.
III.
Làm thế nào để bảo tồn nền văn hóa truyền thống dân tộc, trong môi
trường toàn cầu hóa của thiên niên kỷ mới
Mặc dù đất nước chúng ta đang c̣n gánh nặng
trên vai di sản lạc hậu của cộng sản chủ nghĩa, nhưng hiểm họa lớn lao nhất của
dân tộc Việt Nam hôm nay là hiểm họa mất văn hóa. Người cộng sản chỉ có thể làm
cho dân tộc Việt Nam tụt hậu và chậm tiến so với phần c̣n lại của nhân loại, xă
hội chủ nghĩa đă là một bóng mờ của lịch sử, không c̣n sức sống và sẽ bị triệt
tiêu trong tương lai rất gần. CSVN chỉ c̣n bám víu tạm bợ chiêu bài này để duy
tŕ quyền lực và vơ vét của cải cho bè phái của minh. Cộng sản chủ nghĩa không
c̣n là một đe dọa lâu dài cho dân tộc nữa.
Nền văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam đang
phải đương đầu với những thử thách lớn lao. Sự tụt hậu của dân tộc về phương diện
kinh tế, vốn phát xuất từ những chính sách bảo thủ của giới Tống Nho triều Nguyễn
trong quá khứ, người Cộng Sản bảo thủ hiện tại đă làm cho một số lớn quần chúng,
nhất là tuổi trẻ, đánh giá sai lầm phẩm chất của nền văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá của dân tộc Việt phát xuất trên
4000 năm tại lưu vực sông Hồng Hà, du nhập nền văn hoá Tam Giáo (Phật, Lăo, Khổng)
của Đông Á trong suốt 2000 lịch sử và nền văn hoá tây phương trong gần 100 năm Pháp
thuộc. Những nét ưu việt của nền văn hoá này là yếu tố nhân bản, khai phóng và
phi ư thức hệ. Cũng v́ những yếu tính này mà các dân tộc Đông Á chưa bao giờ bị
thảm họa chiến tranh tôn giáo. Trong khi Châu Âu c̣n đắm ch́m trong sự u minh theo
các chế độ bộ lạc, dân tộc ta đă lập quốc, có quốc hiệu và có nền văn hiến rơ rệt.
Những dân tộc thấm nhuần nền văn hoá Đông Á
như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông đă vươn lên và bắt kịp các nước Tây
Phương. Điều này chứng tỏ rằng nền văn hoá Đông Á hùng mạnh, bền bỉ, sâu dày đă
tôi luyện trí tuệ của các dân tộc Đông Á, đưa các dân tộc này lên vị trí đích
thực ưu việt của họ, trong nấc thang đẳng cấp các dân tôc trên thế giới.
Các quốc gia Châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi ,khởi
đầu công cuộc hiện đại hóa đất nước trước và trên những căn bản kinh tế cao hơn
các quốc gia Đông Á. Bây giờ họ đă bị các quốc gia Đông Á qua mặt. Nếu không bị
gánh nặng xă hội chủ nghĩa giáo điều, dân tôc Việt Nam trong nền văn hoá truyền
thống đă vươn lên từ lâu.
Vốn liếng văn hoá dân tộc ấy là tinh hoa của
đất nước, phải được bảo tồn trong văn kiện nền tảng nhất của trật tự xă hội. Trách
nhiệm bảo tồn văn hoá dân tộc phải là trách nhiệm của toàn dân, từ mọi thành phần
xă hội dân sự đến chính quyền. Trách nhiệm ấy phải được long trọng hiến định hoá
trong hiến pháp của quốc gia, bằng những điều khoản minh thị và cụ thể.
IV.
Làm thế nào để chính quyền tạo được niềm tin nơi người dân
Người Tây Phương có câu: “Công lư không những
phải được thực thi, mà c̣n phải được chứng minh là đă thực thi” (Justice should
not only be done, but must be seen to be done)
Giới nho gia Đông Phương, trong sách Đại Học
của Thầy Tăng Tử cũng có câu: “Thành ư, chính tâm, cách vật, trí tri, tu thân,
tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”.
Câu thứ nhất nói đến yếu tố quan trọng để tạo
niềm tin nơi người dân. Đó là yếu tố “minh bạch” (Transparency) trong bộ máy chính
quyền. Bất cứ một quyết định nào của hành pháp, tư pháp hoặc lập pháp đều phải
theo công lư và minh bạch trên mọi phương diện.
Bất cứ người dân, hoặc tập thể, hoặc hữu thể
pháp lư nào cũng có thể duyệt xét và phê phán. Bởi thế sự phân quyền thực sự
(không phải là phân quyền giả tạo) giữa hành pháp, tư pháp và lập pháp; sự hiện
hữu của các đảng phái đối lập; của báo chí tư nhân độc lập là những điều kiện
tiên quyết để kiểm soát và chứng minh rằng công lư đă được thi hành. Những sắc luật, sắc lịnh, nghị quyết, nghị định
của chính quyền CSVN ngăn cản sự hoạt động các đảng phái không cộng sản, ngăn
chận quyền tự do ngôn luận, kiểm soát internet, cho phép các cơ quan đảng CSVN
ra chỉ thị cho các ṭa án nhân dân phán quyết theo, không thể qua mặt được người
dân trong thời đại thặng dư thông tin này.
Những xảo thuật như thế chỉ làm dân chúng mất
niềm tin, thế giới cười chê đất nước và chính quyền mà thôi.
Câu thứ hai nói đến yếu tố “thành ư chính tâm”
của người lo việc quốc gia.
Khi một người làm việc cho đất nước, viết nên
hiến pháp để làm rường cột cho xă tắc trước hết phải thành ư chính tâm, tức là
phải thành thật với toàn dân. Khi nêu ra quốc hiệu Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, hoặc khẩu hiệu Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc th́ phải thành thật theo xă hội chủ
nghĩa, tạo được độc lập tự do hạnh phúc cho toàn dân. Nếu nhận thấy không làm được
th́ phải bỏ đi.
Trong khi đó hiến pháp 1992 và 2013 , trừ điều
4 và một số điều phi lư khác, vẫn một mặt chủ trương cho dân chúng đầy đủ các
quyền ứng cử, bầu cử, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo v.v…nhưng mặt
khác bằng những mánh lới lộ liễu, qua các sắc luật, sắc lệnh, quyết nghị vi hiến
khác nhau của quốc hội và chính phủ CSVN, tước đi các quyền tự do mà hiến pháp
trao cho dân chúng.
Trong một chế độ dân chủ thực sự, khi có hệ
thống tam quyền phân lập (separation of powers) th́ quyền duyệt xét một sắc luật,
sắc lệnh, nghị quyết của chính phủ hoặc quốc hội có vi hiến hay không, phải là
quyền của tư pháp độc lập (qua một tối cao pháp viện độc lập). Bản hiến pháp 1992 và 2013 không những không
có ngành tư pháp độc lập, mà c̣n trao quyền duyệt xét cho chính quốc hội.
Dĩ nhiên
theo luật bầu cử chỉ có những ứng viên có sự đề cử của Mặt Trận Tổ Quốc mới được
ra ứng cử, hậu quả là CSVN kiểm soát toàn bộ Quốc Hội. Mặc dù vi hiến rơ rệt các sắc luật, sắc lệnh,
nghị quyết của chính phủ và quốc hội không bao giờ bị tuyên bố là vi hiến cả.
Trong
hiến pháp 1992 lẫn 2013, một khi một quyền công dân được quy định, thường tḥng
them câu “theo quy định của luật pháp” như hiến pháp của các quốc gia dân chủ
chân chính.
Tuy nhiên, thành ngữ “theo quy định của luật pháp” có
giới hạn rơ rệt. Đó là chính quyền chỉ có thể ra những sắc luật để thực thi và
bảo vệ các quyền công dân này. Chính quyền không được phép ra những sắc luật mà
hậu quả rơ rệt là tước đi các quyền hiến pháp minh thị ban cho người dân. Làm
luật như thế là làm luật rừng, không cần học qua trường luật nào, v́ không một
quốc gia văn minh nào chấp nhận.
Những hiến
pháp và luật lệ của người cộng sản phát xuất từ quan điểm đấu tranh khốc liệt của
Đệ Tam Quốc Tế do Lenin lănh đạo. Vào đầu thế kỷ 20, nước Nga c̣n rất lạc hậu.
Mặc dù đă được giải phóng, các nông dân Nga c̣n mang nặng tâm lư ngu dốt của những
nông nô thời trung cổ. Đối với Lenin, Hiến pháp và luật pháp chỉ là những công
cụ chính trị để lừa gạt, đàn áp các đối thủ chính trị và thống trị dân Nga tuyệt
đối. Khi Lenin nói dân chủ, ông thật sự khinh bỉ khái niệm dân chủ mà ông cho là
tư sản (bourgeois) này. Khi nói đến tự do bầu cử, ông không thực tâm tin rằng dân
chúng xứng đáng với trọng trách đó. Các bản hiến pháp của Liên Xô và các quốc
gia CS khác sau này tuy không do chính tay Lenin viết, nhưng đều bị ảnh hưởng nặng
nề bởi quan điểm đấu tranh của ông.
Người
CSVN hiện giờ là một trong số ít oi những chính quyền c̣n mang nặng di sản tinh
thần cũ kỹ và hẹp ḥi này của Lenin.
V́ thế
hiến pháp 1992 và 2013 thiếu đi yếu tố “thành ư chính tâm”. Tất cả các mỹ từ
trong hiến pháp hoặc khẩu hiệu của chế độ như: dân chủ, tự do, ái quốc, tổ quốc
xă hội chủ nghĩa, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa, Độc
Lập Tự Do Hạnh Phúc v.v… đều là những chiêu bài hoặc thủ thuật chính trị, không
có thành ư chính tâm của giai cấp thống trị làm nền tảng.
Các nhà
trí thức CSVN yêu nước như GS Tương Lai, Nguyễn Quang A, Nguyễn Trung, Nguyễn
Trần Bạt v.v.. dù có dùng ngàn lời để phân tích và t́m hiểu một sắc luật, sắc lệnh,
nghị quyết có vi hiến hay không (cách vật trí tri), làm sao để tiêu diệt tham
nhũng, cũng không thể nào ra khỏi mê hồn
trận được( v́ người lập hiến pháp thiếu thành ư chính tâm). Nhiều thế hệ sĩ phu
CS sẽ không có căn bản chân chính để tu thân, tề gia, v́ những người lập pháp
nguyên thủy đă không thành ư chính tâm với dân tộc. Hậu quả không thể nào trị
quốc và b́nh thiên hạ được.
Câu châm
ngôn “thượng bất chánh, hạ tắc loạn” áp dụng cho trường hợp này.. Một giai cấp
thống trị thiếu thành ư chính tâm, một hệ thống hiến pháp và pháp luật lừa gạt
người dân, làm sao có thể đưa đến một nền
dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính? đem lại công bằng xă hội? làm
cho dân tộc phú cường? tiêu diệt tham nhũng?
đại đoàn kết dân tộc? phục hưng văn hoá và phục hồi nguyên khí của quốc
gia?
V.
Kết Luận:
Thiên
niên kỷ này là cơ hội để toàn dân Việt Nam xây dựng một trật tự xă hội mới cho
tổ quốc, trên căn bản đồng thuận. Muốn vậy người CSVN phải can đảm:
Làm được như thế sẽ khai thông những bế tắc và bất công mà dân tộc
chúng ta đă gánh chịu quá lâu, tạo cơ hội cho giới sĩ phu kể cả giới sĩ phu CS
yêu nước, đóng góp tích cực vào tiến tŕnh phục hưng đất nước, trên căn bản thành
ư và chính tâm của tiền nhân.
Các dân
tộc Tây Phương không hơn ǵ chúng ta cả. Sự thành công của cộng đồng người Việt
hải ngoại chứng minh rơ rệt điều này. Các dân tộc này chỉ may mắn hơn chúng ta
là lịch sử đă trao cho họ một hệ thống chính trị và luật pháp minh bạch
(transparent), một trật tự xă hội (qua luật pháp và hiến pháp), thể hiện nghiêm
chỉnh “thành ư chính tâm” của những người lănh đạo đất nước.
Đă đến lúc
chúng ta học bài học này để cùng nhau đưa đất nước đi lên.
Luật Sư Đào Tăng Dực