Các Ṭa Án Quốc Tế Và Giới Hạn Chủ Quyền Quốc Gia
LS. Đào Tăng Dực
Một trong những giấc mơ lư tưởng nhất
của nhân loại vào thế kỷ 21 là khới đầu cho một tiến tŕnh để tiến đến một thế
giới trong đó biên giới giữa các quốc gia không c̣n nữa. Trong một trật tự toàn
cầu như thế, biên giới quốc gia sẽ không c̣n là chỗ trú ẩn bất khả xâm phạm của
những cá nhân và tập thể độc tài khát máu nữa. Có thể nói rằng ước vọng có một thế giới thống
nhất phi quốc gia như thế là một ước vọng phi ư thức hệ.
Thật vậy đứng trên khía cạnh xóa nḥa
các biên giới quốc gia th́ người Cọng Sản nguyên thủy, với ước vọng một thiên
đường xă hội chủ nghĩa đại đồng, chẳng khác ǵ hiện tượng toàn cầu hóa kinh
tế mà các nhà đại tư bản ngày hôm nay đang theo đuổi.
Chính v́ mẫu số chung này mà sau khi
chiến thắng trục Phát Xít Đức Ư và Nhật sau 1945 th́ cả hai phe tư bản và cọng
sản đều đồng ư thành lập một cơ chế toàn cầu gọi là Liên Hiệp Quốc (LHQ). Dĩ
nhiên, đây không phải là một cơ chế hoàn hảo và những cường quốc đương thời gồm
Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh Quốc, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc (bây giờ là Trung Hoa
Cộng Sản) là những hội viên thường trưc của Hội Đồng Bảo An (với rất nhiều
quyền hạn) v́ mỗi quốc gia này có quyền phủ quyết (veto power).
Ngoài bản Ước Chương Liên Hiệp Quốc
(United Nations Charter) để đặc căn bản cho sự điều hành thể chế quốc tế quan
trọng này, chúng ta phải kể đến Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 và các
văn bản liên hệ.
Nền tảng của dân chủ tây phương và căn
bản của nhân quyền (human rights) lẫn dân quyền (civil rights) là quan điểm
Pháp Trị (rule of law) để bảo vệ con người cá thể trong xă hội, trong các tương
quan với chính quyền. Quan điểm pháp trị tuy mới mẻ đối với các quốc gia Phi
Châu và Á Châu nhưng đă tích lũy từ nhiều thế kỷ tại tây phương.
Tuy nhiên sự điều hợp tương quan giữa
các quốc gia là một nhu cầu tương đối mới mẻ. Luật quốc tế như là một khái niệm
nền tảng tương đối phôi thai hơn và trên nguyên tắc lẫn trên thực tế th́ câu
nói của thi sĩ người Pháp La Fontaine vẫn c̣n áp dụng: “Cái lư của kẻ mạnh lúc
nào cũng thắng thế.”
Câu hỏi đặc ra cho các chính khách có
viễn kiến về một chính quyền toàn cầu trong tương lai cho toàn thể nhân loại
là: tại sao không áp dụng quan điểm pháp trị cho tương quan giữa những quốc
gia? Tại sao quan điểm pháp trị chỉ giới hạn trong tương quan giữa những con
người cá thể và giữa các chính quyền và những cá thể nằm trong phạm vi thẩm
quyền của ḿnh?
Có thể nói rằng chính v́ đặc vấn đề như
thế mà một cơ chế vô cùng quan trọng nữa, để củng cố cho LHQ được thành
lập. Đó là Toà Án Công Lư Quốc Tế (Ṭa Án CLQT) (International Court of
Justice). Những đường nét chính của Ṭa Án CLQT như sau: Bắt đầu hoạt động năm
1946, trụ sở tại Dinh Ḥa B́nh (Peace Palace) tại thủ đô The Hague của Hoà Lan.
Nhiệm vụ là giải quyết những tranh chấp hiữa các quốc gia căn cứ trên luật quốc
tế , cũng như cố vấn cho các cơ quan quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề pháp
lư. Căn bản pháp lư của Ṭa là những hiệp ước quốc tế và ước lệ hiện hành,tập
quán quốc tế, những nguyên tắc pháp lư tổng quát,và ở mức độ ít hơn, các án lệ
và quan điểm của các luật gia nổi tiếng.
Toà Án CLQT gồm 15 vị thẩm phán, nhiệm
kỳ là 9 năm và bầu lên bỡi Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quồc trong 2 phiên họp riêng biệt. Mỗi quốc gia chỉ có thể có một vị thẩm
phán. Bầu cử một phần ba số thẩm phán mỗi ba năm. Trên nguyên tắc mỗi thẩm phán
hoàn toàn độc lập và không bị anh hưởng của quốc gia ḿnh. Mỗi vị thẩm phán
phải có bằng cấp xứng đáng trong quốc gia của ḿnh hoặc phải là một luật gia
quốc tế có tiếng tăm.
Khi một phiên ṭa xử một vụ án mà một
quốc gia nào đó là nguyên cáo hoặc bị cáo, nếu quốc gia đó không có quan ṭa
thuộc xứ ḿnh trong ṭa, th́ quốc gia đó có thể bổ nhiệm một quan ṭa tham gia
vào phiên xử trên căn bản tạm thời (ad hoc).
Cho đến ngày 9/2/2015 th́ các quan ṭa
đến từ các quốc gia sau đây: Pháp, Romania, Nhật Bổn, Slovakia, Marocco,
Brazil, Vương Quốc Anh, Trung Hoa, Hoa Kỳ, Ư, Uganda, Ấn Độ, Úc, Nga và Jamaica.
Tuy nhiên Ṭa án CLQT có rất nhiều giới
hạn và chưa thỏa măn được nhu cầu của một thế giới đang tiến lại gần nhau hơn.
Trước hết thẩm quyền bị giới hạn như
sau:
Chỉ có các quốc gia (không có cá
nhân) mới có thể là Nguyên Cáo hoặc Bị Cáo trước ṭa.
1.
Chỉ có những quốc gia
hội viên của Liên Hiệp Quốc (LHQ) (khoảng 193 quốc gia).
2.
Ṭa chỉ có thẩm quyền
nếu các quốc gia kư kết với nhau hiệp ước đặc biệt chấp nhận thẩm quyền
của ṭa (cho đến nay có 72 quốc gia, trong đó không có Việt Nam và Hoa Kỳ),
hoặc khi những quốc gia có nhiều hiệp ước về nhiều vấn đề khác nhau, trong đó
có một điều khoản ghi rằng nếu có sự tranh chấp th́ sẽ do ṭa giải quyết. Hiện
giờ có hằng trăm thỏa ước như thế trên thế giới, hoặc khi hai quốc gia đă tuyên
cáo chính thức công nhận thẩm quyền của ṭa và sau đó có sự tranh chấp.
3.
Ṭa không có thẩm
quyền xử những cá nhân vi phạm tôi giết người tập thể (genocide). Giết người
tập thể hoặc vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn bỡi những nhà độc tài,
những nhóm quân phiệt hoặc các nhóm quân nhân tàn ác, nằm ngoài thẩm quyền của
Ṭa Án Công Lư Quốc Tế.
Chính v́ thế LHQ đă quyết định thành
lập một ṭa án khác để bổ sung. Đó là Toà án H́nh Sự Quốc Tế (Ṭa Án HSQT)
(International Criminal Court). Theo Website của LHQ (www.un.org/law/icc/general/overview)
Những nét chính của Ṭa Án này như sau:
Mục tiêu chính của nó được nêu rơ trong
lời tuyên bố hùng hồn sau đây của ông cựu Tổng Thư Kư LHQ Koffi Annan :”Kỳ vọng
về một chế độ công lư ṭan cầu nằm trong viễn ảnh của một ṭa án h́nh sự quốc
tế. Đây chính là niềm ước vọng đơn giản và đang vươn lên của viễn ảnh này.
Chúng ta đă gần đến mục tiêu. Chúng tôi sẽ cố gắng hết ḿnh. Chúng tôi yêu cầu
quư vị (đại biểu)…..đóng góp phần ḿnh vào cuộc chiến đấu của chúng ta hầu để
không cho phép bất cứ nhà độc tài , chính quyền , nhóm quân nhân và quân đội
nào, bất cứ nơi đâu có thể vi phạm nhân quyền một cách công nhiên trắng trợn.
Chỉ có khi đó, những nạn nhân vô tội của những cuộc chiến xa xôi và những cuộc
tranh chấp mới biết rằng chính họ cũng có thể an giấc dưới sự bảo vệ của công
lư, chính họ cũng có (nhân ) quyền, và kẻ nào vi phạm những quyền này sẽ bị
trùng phạt.”
Cũng theo website trên những mục tiêu
khác của Ṭa Án HSQT bao gồm :
a.
Đem lại công lư cho
tất cả mọi cá nhân trong ḥan cầu (bất kể biên giới quốc gia).
b.
Chấm dứt những
cuộc tàn sát trắng trợn dă man, hóa giải những khuyết điểm của các pháp đ́nh
giai đoạn (ad hoc tribunals).
c.
Hành động để trừng
phạt những kẻ phạm tội khi các quốc gia liên hệ hoặc không muốn hoặc không có
khả năng hành động để đem lại công lư.
d.
Cảnh cáo và pḥng
ngừa những tội phạm chiến tranh.
Theo kư giả Neil Lewis (“White House
Turns Its Back on International Court”, Sydney Morning Herald 25/2/2003) Ṭa Án
HSQT bắt đầu chính thức vào năm 2004. Kề từ tháng giêng 2015 đă có 123 quốc gia
phê chuẩn tham gia. Phần lớn các quốc gia trên thế giới ủng hộ cho Ṭa Án, nhất
là Liên Hiệp Âu Châu. Nhiều quôc gia từ chối không kư kết tham gia, trong những
quốc gia này có Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga Sô.
Theo Neil Twêedie và Joshua Rozenberg
trong bài “Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế Khai Trương vắng Bóng Hoa Kỳ “ (đăng trên The
Age ngày 25/2/03 ) th́ Hoa Kỳ là một trong 7 nước duy nhất bỏ phiếu chống lại
hiệp ước năm 1998 khai sinh Ṭa Án cùng với Trung Quốc,Iraq,Libya, Yemen,Qatar
và Do Thái.
Nhiều thức giả cũng không đồng ư với sự
thành lập ṭa án này. Geoffrey Hills, trong một bài đăng tải trên On Line
Opinion (www.onlineopinion.com.au)
ngày 25/2/03 viết:
“Ṭa Án HSQT sẽ thất bại trong trách
nhiệm bảo vệ nhân quyền trong tất cả mọi trường hợp, chỉ trừ những trường hợp
mà các chính quyền quốc gia rơ ràng bất lực. Ṭa án cũng sẽ tạo nhiều cơ hội
cho những tấn tuồng chính trị có tầm vóc lớn lao. Chính những lư do này, chứ
không phải những viện cớ trên căn bản những ư niệm (cũ kỹ) từ thế kỷ 19 về chủ
quyền quốc gia của các chính trị gia bảo thủ, là căn nguyên tại sao Úc Đại Lợi
nghi ngờ Ṭa Án HSQT và làm các nhà lảnh đạo chính sách (policy makers) của Úc
xét lại xem Úc có nên đóng góp để tu chính sắc luật liên hệ (Statute) để đạt
đến một hệ thống công lư thực tế (workable) hơn hay không.”
Tuy nhiên nhiều thức giả khác đă ủng hộ
cho Ṭa Án này. Giáo sư Hillary Charlesworth thuộc Viện Công Pháp và Luật Pháp
Quốc Tế viết trong bài “ Nên Ủng Hộ Cho Ṭa Án Công Lư Toàn Cầu” ( “Compelling
Case For Global Court of Justice”, The Australian ngày 25/2/03) :
“Ṭa Án HSQT sẽ không hoàn hảo nhưng là
một sự khởi đầu… .. . Dĩ nhiên luật quốc tế phải rất tế nhị giữa quan tâm đến
nhân quyền (bên này) va chủ quyền quốc gia (bên kia) . Các quốc gia luôn luôn
xem bất cứ những tra vấn nào đến từ bên ngoài về các vấn đề nhân quyền của ḿnh
là những sự vi phạm chủ quyền quốc gia.. . Quan trọng hơn hết là thẩm quyền của
Ṭa Án HSQT như là một biện pháp an toàn cuối cùng (safety net) sẽ bao gồm mọi
quốc gia, không phải chỉ một vài quốc gia tệ hại. Ṭa Án HSQT sẽ không hoàn hảo
nhưng đây là một khởi đầu tốt cho công lư quốc tế.”
Úc đă phê chuẩn tham gia ngày 1 tháng 7
năm 2002.
Câu hỏi mà mọi người đặt ra là : chúng
ta có thể hiểu tại sao những quốc gia có những chính quyền độc tài hoặc quân
phiệt, hoặc Giáo Phiệt , Quân Chủ Chuyên Chế (Một vài quốc gia Hồi Giáo), hoặc
cọng sản (Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam) có thể dị ứng với ư niệm về Ṭa Án
HSQT, lấy cớ là bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên làm sao có thể hiểu được
lư do ǵ một quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ (kư kết nhưng quốc hội chưa phê chuẩn)
cũng chống lại ư niệm Ṭa Án HSQT?
Theo quan điểm của tôi, câu trả lời là
v́ nền dân chủ Hoa Kỳ, tuy lâu đời nhưng đă không được thường xuyên cải tổ và
đă trở nên lỗi thời. Thêm vào đó, các định chế dân chủ của Hoa Kỳ đă bị các thế
lực tài phiệt khống chế, làm mất đi ư nghĩa cao đẹp nguyên thủy của quan điểm
dân chủ mà Thomas Jefferson, Hamilton, Benjamin Franklin và các cha đẻ khác của
Hiến Pháp Hoa Kỳ từng đeo đuổi. Trước hết ngày nay, Hoa Kỳ không phải là một
chế độ dân chủ đa nguyên thực sự mà chỉ là một chế độ nhi nguyên chính trị. Lư
do là v́ Hoa Kỳ theo nguyên tắc bầu cử “ngựa chạy về nhất” hoặc “thắng làm
vua”, chỉ cần đa số tương đối là thắng cuộc. Phương thức này có kết quả là loại
bỏ ra ngoài chính trường dân cử tất cả những đảng phái nhỏ khác. Chỉ tập trung
quyền lực chính trị và hai đảng lớn có tầm vóc là Dân Chủ và Cọng Ḥa.
Trong khi các quốc gia dân chủ tân tiến
khác trên thế giới đă chuyển qua phưong thức bầu cử “đại diện theo tỷ lệ”
(proportional representation). Nếu một đảng phái có 5% dân chúng ủng hộ th́ xác
xuất sẽ có 5% dân biểu đại diện trong quốc hội, nếu có 50% th́ sẽ có xác xuất
chiếm đa số trong quốc hội. Phương pháp bầu cử này là căn bản của một chế độ đa
nguyên chân chính.
V́ chỉ có 2 thực thể chính trị có
thực quyền, các thế lực tư bản tại Hoa Kỳ chỉ cần kiểm soát và ảnh hưởng đến
các đảng này qua những sự đóng góp về tài chánh trong các cuộc bầu cử vô cùng
tốn kém, trong những thương thuyết sau hậu trường về nhưng bổng lộc cho các
chính trị gia sau khi tham chính etc…..các thế lực tài phiệt này hầu như
sở hữu toàn diện quốc gia Hoa Kỳ, và qua quốc gia hùng mạnh nhất này, họ thống
trị cả thế giới.
Dĩ nhiên Hoa Kỳ là một quốc gia pháp
trị và nếu họ muốn nắm quyền th́ phải qua những cuộc bầu cử theo luật định. Tuy
nhiên những cuộc bầu cử này cũng bị khống chế qua các biện pháp sau đây:
a.
Trước hết các thế lực
tài phiệt phải liên kết với giai cấp da trắng trung lưu, các người da đen nhưng
thành công vượt trội trên đa số người da đen khác, các người di dân từ Châu Mỹ
La Tinh (Hispanics) nhưng thành công trong xă hội mới, những người da màu khác
vượt trội. Qua sự liên kết này họ tạo dược một khối đa số trong xă hội Hoa Kỳ
để thống trị và bóc lột một khối thiểu số (mà đa số là da màu)
b.
Kết quả là chúng ta
thấy mặc dù người da đen tại Hoa Kỳ có tỷ số khoảng 13% dân số, cọng với người
gốc Châu Mỹ La Tinh khoảng 40% dân số vẫn hoàn toàn bị sự khống chế của một
giai cấp trung lưu (mà đa số là da trắng). Nếu bầu cử theo đại diện theo tỷ lệ
th́ người Mỹ da đen đă có 13% dân biểu trong quốc hội và người Hispanics đă có
40% đại biểu trong quốc hội. Cán cân quyền lực sẽ hoàn toàn thay đổi. Hậu quả
đương nhiên sẽ là một sự tái phối trí quyền lợi quốc gia vĩ đại (a gigantic
redistribution of national wealth). Mọi người dân Hoa Kỳ, bất kể có công ăn
việc làm hay không sẽ có bảo hiểm y tế toàn diện (universal medicare) như cựu TNS
Hillary Clinton đă từng đề nghị (Tuy chính sách Obamacare mới đây giải quyết
phần nào, nhưng chỉ là một biện pháp vá víu không hoàn hảo), Hoa Kỳ sẽ không c̣n
những vùng slum da đen ghê rợn, đồng lương tối thiểu tại Hoa Kỳ sẽ được nâng
cao, quyền lợi của giới công nhân sẽ được bảo đảm hơn, luật lao động sẽ tiến bộ
hơn và bắt kịp các nước Âu Châu và Úc Châu. Có thể nói rằng, phần lớn v́ có một
nền dân chủ tân tiến hơn mà tại Úc Châu và Âu Châu, hố sâu giữa giới chủ nhân
và công nhân không quá sức bất công như tại Hoa Kỳ, hệ thống an sinh xă hội tốt
đẹp hơn và con người cá thể, dù có nghèo khó hay thất nghiệp, vẫn có nhân phẩm
hơn.
c.
Để giới bị bóc lột
quên đi những bất công mà họ gánh chịu và đồng thời để phân phối tài nguyên
quốc gia thêm và túi của ḿnh, các tài phiệt Hoa Kỳ có thể xử dụng ḷng yêu
nước để kích động sự hy sinh của mọi giới, nhất là giới nghèo khổ. Chính v́ thế
các chính trị gia diều hâu và hiếu chiến có thể được các thế lực tài phiệt
truyền thông thổi phồng, đánh bóng, để một khi nắm được chính quyền, can thiệp
bằng vũ lực vào những điểm nóng trên thế giới, tăng cường ngân sách quốc pḥng
(phần lớn lọt vào tay một số công ty tư bản lớn sản xuất vơ khí), đồng thời tạo
ra những cuộc chạy đua vơ khí quốc tế để không những dân đen Hoa Kỳ mà dân
nghèo của toàn thế giới đóng góp cho họ nữa. Một khi ḷng yêu nước và tinh thần
hy sinh bi kích động th́ ngay cả những người nghèo cũng bầu cho các chính trị gia
mà họ cho là “cứng rắn yêu nước”.
Đây cũng chính là gốc rễ của
nguyên nhân tại sao Hoa Kỳ không chấp nhận thẩm quyền của Ṭa Án HSQT : ngoài
vấn đề dễ hiểu là Hoa Kỳ tự cho ḿnh là “siêu” cường và không muốn bị ràng buộc
bỡi những luật lệ “tầm thường”, nhất là xác xuất có thể bị các quốc gia “không
ra ǵ “ trên phương diện nhân quyền lợi dụng tố cáo, th́ Hoa Kỳ rất khó biện
minh cho Luật Tử H́nh (capital punishment) mà thế giới văn minh đă bỏ từ lâu.
Lư do thầm kín là v́ phần lớn những người bị kết án tử h́nh là người da đen.
Ngoài ra các quân nhân Hoa Kỳ, trong các cuộc viễn chinh không muốn bị ràng
buộc bỡi những nguyên tắc nhân quyền phức tạp.
Chúng ta có thể kết luận rằng Tư Bản
Hoa Kỳ thống trị thế giới được v́ đă khéo léo xử dụng một đa số dân chúng trung
lưu để thống trị một thiểu số dân nghèo. Nếu dân chủ đa nguyên thật sự được
thực thi tại Hoa Kỳ (qua phương thực bầu cử theo tỷ lệ) th́ trọng tâm chính trị
của Hoa Kỳ sẽ chuyển ḿnh một phần từ khuynh hướng tạo ra của cải (wealth
creation) của giới tư bản qua khuynh hướng tái phối trí của cải (wealth
redistribution) của giới thợ thuyền. Khi một trung điểm vừa phải được đạt tới
giữa hai khuynh hướng đối nghịch nàyth́ Hoa Kỳ sẽ là một quốc gia lư tưởng,
xứng đáng hơn với vị trí đệ nhất cương quốc của ḿnh.
Lúc đó chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ
sẽ tế nhị và nhạy bén hơn v́ trong chính trường của Hoa Kỳ sẽ có sự hiện diện
nhiều hơn của những chính trị gia da màu, gần gũi với đệ tam thế giới và những
vấn nạn của thế giới nghèo khổ này.
Chính v́ sự phân tách nêu trên, tôi
mạnh dạn cho rằng, không những các quốc gia độc tài, vi phạm nhân quyền như
Việt Nam, Trung Quốc, Iran. Miến Điện v.v. phải chấp nhận thẩm quyền của Ṭa Án
HSQT mà các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ cũng phải chấp nhận. Hoa Kỳ phải chấp nhận
v́ nền dân chủ của ḿnh có nhiều khuyết điểm. Một khi những khuyết điểm được
nhận diện th́ cần có can đảm để chấn chỉnh. Liên Hiệp Âu Châu chấp nhận được
th́ tại sao Hoa Kỳ không chấp nhận được?
Thêm vào đó, tôi quan niệm c̣n phải đi
xa hơn nữa đối với những quốc gia độc tài trắng trợn như Việt Nam, Trung Quốc,
Iran, Miến Điện.
Đối với những quốc gia này, thẩm quyền
của Ṭa Án HSQT cần phải được tập trung để kết án luôn cả những lănh đạo, đảng
phái, chính quyền trắng trợn vi phạm nhân quyền. LHQ có thể không có nhiều sư
đoàn trang bị vũ khí mạnh bằng Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc hoặc Việt Nam
,nhưng sự kết án minh bạch, công khai và công bằng một chế độ phi dân chủ và
phi nhân quyền, sẽ là một đ̣n chí tử cho một chế độ đă lỗi thời, đẩy mạnh
tiến tŕnh xây dựng dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên tại các quốc gia
vi phạm. Chủ quyền quốc gia, mặc dầu là một ư niệm cao đẹp của dân tôc, nhưng
không thể được xem là một tấm b́nh phong để các phe nhóm quân phiệt, quân đội,
kéo bè kéo phái, xôi thịt trên đầu cổ dân đen như tại Miến Điện. Cũng không thể
làm b́nh phong cho những người tư bản Đỏ tại Việt Nam bóc lột nhân dân qua
chiêu bài xă hội chủ nghĩa đă rách nát. Cũng không thể biện minh cho những phe
nhóm giáo phiệt tham lam quyền lực và quyền lợi, thống trị xă hội dân sự.
Constitution Hill 16/9/2015
LS Đào Tăng Dực