Làm Sao Ðể Trở Thành Kẻ Nội Thù Của Dân Tộc?

Luật Sư Ðào Tăng Dực

Khi chúng ta quan sát tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam, qua các cơ quan thông tin của chính quyền (Vietnamnet), hoặc quốc tế (BBC), một vài hiện tượng sau đây có thể giúp chúng ta phát họa con đường chính trị mà người Cộng Sản Việt Nam sẽ chọn lựa để đi trong tương lai gần:

  1. Sự thân thiết giữa giới lãnh đạo Việt Nam bây giờ và Bộ Trưởng Cố Vấn Singapore Lý Quang Diệu.
  2. Nội dung cuộc trao đổi giữa Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội TS Nguyễn Sỹ Dũng liên hệ đến các vấn đề mô hình nhà nước và quan hệ giữa nhà nước và Ðảng.
  3. Cuộc phỏng vấn của BBC với bình luận gia chính trị lão thành Lê Hồng Hà, về những biến chuyển của đảng CSVN trong năm 2006, trong các ngày 4-5 tháng 1 năm 2007 về 5 vấn đề: quyền lực của quốc hội, điều 4 hiến pháp, tư pháp độc lập, quân đội và công an phải trung thành với tổ quốc, và luật báo chí và luật lập hội.

Sau khi phân tích 3 hiện tượng trên, chúng ta có thể mường tượng tương đối rõ rệt sách lược chính trị ngắn và trung hạn, mà người CSVN sẽ đi, như sau:

Trước những áp lực không thể cưỡng lại của kỷ nguyên mới, CSVN đã khôn ngoan nhận thấy không thể không có những cải tổ. Tuy nhiên họ chỉ cải tổ ớ mức độ mà quyền lợi béo bở của giai cấp lãnh đạo không bị giảm sút hoặc mất mát mà thôi.

Khi chúng ta nghiên cứu bài phỏng vấn Ông Lê Hồng Hà nêu trên, thì chúng ta cũng nhận thấy, ngay trong hàng ngũ Ðảng CSVN, cũng có những người có viễn kiến và đã hình dung được con đường dân chủ hóa đất nước là con đường tất yếu phải theo.

Tuy nhiên, mặc  dầu  họ có thiện chí và đã nêu ra những yếu tố quan trọng như:

  1. Củng cố quyền lực của Quốc Hội để trở thành cơ quan tối cao thể hiện ý chí của toàn dân và giảm bớt đi vai trò lãnh đạo Quốc Hội của Ðảng.
  2. Sự quan trọng của một nền tư pháp hoàn toàn độc lập đối với đảng và đối với hành pháp. Ðây chính là nền tảng cũa một chế độ pháp trị chân chính.
  3. Ý thức manh nha xuất hiện từ trong nội bộ đảng CSVN về một vai trò giảm thiểu của đảng, như là một chính đảng trong nhiều chính đảng, sinh hoạt trong lòng dân tộc. Hệ lụy tự nhiên là hai lực lượng vũ trang quan trọng của đất nước là quân đội và công an không thể tiếp tục trung thanh với đảng, mà phải trung thanh với đất nước và tổ quốc mà thôi.
  4. Báo chí độc lập và luật lập hội, theo đúng tinh thần của hiến pháp và, nhất là các công ước quốc tế về nhân quyền và dân quyền mà chính CSVN đã ký kết, là những yếu tố cần phải có trong một nền dân chủ thực sự, với một xã hội dân sự có khả năng độc lập, cân bằng quyền hạn của chính quyền.
  5. Sau cùng, có một ý thức rõ rệt từ trong nội bộ đảng, là điều 4 hiến pháp là một sự sỉ nhục trước quốc tế. Tuy nhiên vì tham quyền cố vị, CSVN đã chưa đủ can đảm, hùng tâm tráng chí để huỷ bỏ điều này. Thay vào đó họ có ý “luật hóa” điều 4 để có một bộ mặt tương đối đỡ trơ trẽn hơn. Dĩ nhiên chưa ai hiểu rõ rệt phải làm thế nào để luật hoá một điều phi lý như thế. Chúng ta chỉ có thể dự đoán rằng, quan điểm “luật hoá” này tương tự với quan điểm luật hoá những điều khoản của các hiến pháp người tây phương, trong những nền dân chủ đa nguyên thực sự. Chẳng hạn các hiến pháp các chính quyền theo thể chế liên bang, thường trao các quyền ngoại giao, quốc phòng và ngoại thương, hoặc thương nghiệp xuyên tiểu bang, cho các chính quyền liên bang, thay vì tiểu bang. Tuy nhiên các điều ghi trong hiến pháp không thể thi hành vì thiếu yếu tố rõ rệt. Chính vì thế các quốc hội cần phải ra các sắc luật để “luật hoá” các đều khoản này, nêu ra giới hạn của quyền lực, chỉ định cơ sở chịu trách nhiệm và phương thức thi hành quyền lực. Mục đích thực sự của CSVN là lợi dụng quan điểm này để “luật hoá” một điều khoản hiến pháp hoàn toàn phi lý mà không một hiến pháp nào trên thế giới có thể chấp nhận, đồng thời xoa dịu bằng một vài nhân nhượng và giới hạn nhỏ nhoi. Lại một lần nữa lừa gạt dân tộc.

Tuy nhiên đây chỉ là khuynh hướng tư duy của một số thành phần cấp tiến trong đảng mà thôi. Chưa chắc quan điểm cởi mở, vốn còn quá khiêm nhượng này, được chia xẻ rộng rãi trong Ðảng.

Một trong những khó khăn mà người CSVN phải điên đầu là: làm sao vẫn duy trì quyền thống trị của Ðảng, mà không bị quốc tế sỉ nhục, trong một môi trưòng quốc tế thặng dư thông tin, và trào lưu dân chủ đa nguyên nổi bật.

Trong một bài báo tựa đề “ Giải quyết mối quan hệ giữa Ðảng và Nhà nước” trên Vietnamnet (16/1/07) do phóng viên Khánh Linh thực hiện, qua một cuộc phỏng vấnTS Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội ngày 15/1/07, chúng ta nhận thấy manh nha một hướng đi của người CSVN.

Theo lời củaTS NSD:

“Thực ra, cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, chỉ có 3 mô hình chính thể (mô hình tổ chức nhà nước) đã được thiết kế và vận hàn tương đối thành công trong thế giới hiện đại ngày nay. Ðó là:

Sau đó TS NSD đưa ra 7 ưu điểm sau đây để biện minh cho mô hình đại nghị áp dụng cho Việt Nam:

- Ta sẽ được một mô hình hết sức thống nhất và minh bạch, với rất nhiều điểm mạnh. Xin được kể ra đây một vài ưu điểm như sau:

1. Quy trình ban hành quyết định là một quy trình thống nhất và minh bạch và hiệu quả từ sáng kiến về chính sách đến tranh luận về chính sách và phê chuẩn chính sách.

2. Tiết kiệm một lượng rất lớn thời gian của đất nước. Cách làm hiện nay có tới 2, 3 nơi phải quyết định, rồi còn gửi qua gửi lại thì rất mất thời gian chờ đợi nhau. Riêng chuyện ban hành quyết định chậm thì mình đã thua các nước khác rất nhiều.

3. Chất lượng của các quyết định sẽ được nâng lên, vì các bước trong quy trình ban hành quyết định rất mạch lạc và bổ sung giá trị cho nhau. Nội các đề ra chính sách, thảo luận trong Đảng đoàn nên sẽ có sự gắn kết, ra toàn QH thì có sự phản biện và tranh luận.

4. Xác lập được chế độ trách nhiệm rất rõ ràng. Tình trạng người quyết thực không chịu trách nhiệm, nên người quyết để thể chế hoá cũng không chịu trách nhiệm sẽ không thể xảy ra.

5. Tránh được rủi ro của những xung đột không đáng có giữa QH và Đảng. Các đảng viên trong QH tham gia từ đầu vào việc hoạch định chính sách, tranh luận chính sách, và theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì đa số sẽ quyết và anh là thiểu số trong đảng thì anh phải theo.

6. Sự gắn kết giữa QH và CP sẽ giúp cho nhà nước ta có thể phản ứng nhanh và chuẩn xác với các vấn đề của đất nước.

7. Tạo cơ hội để tách hành chính ra khỏi hành pháp, nhờ đó cải cách hành chính sẽ có được bước chuyển biến về chất và chế độ trách nhiệm sẽ được xác lập rõ ràng hơn.”

Nếu mục tiêu của người CSVN là thành ý chính tâm xây dựng dân chủ cho đất nước trước kỷ nguyên mới, thì lập luận của TS NSD đã mất đi phần lớn giá trị. Có 2 lý do chính mà Ông đã không đề cập đến:

  1. Mặc dầu mô hình đại nghị không chú trọng đến sự phân quyền giữa hành pháp và lập pháp, nhưng trọng tâm của chế độ đại nghị là sự hiện diện của một đối lập mạnh. Sự bền vững và điểm son của mô hình đại nghị là sự hiến định hoá, hoặc luật hoá, vai trò của đối lập, để cho đối lập có một vai trò chất vấn chính phủ, lãnh tụ đối lập lãnh lương tương đương với một bộ trưởng của chính phủ (như trong trường hợp Úc Ðại Lợi), các phát ngôn viên đối lập còn được gọi là shadow ministers để thể hiện vai trò quan trọng của họ, họ được cấp nhân viên thêm, để có thể chu toàn trách nhiệm giám sát chính quyền. Chính vì thế, mặc dầu  không có phân quyền giữa hành pháp và lập pháp, mô hình này vẫn là một mô hình dân chủ chân chánh.
  2. Một điểm quan trọng hơn nữa là mô hình đại nghị chỉ có thể phát huy dân chủ thực sự trong những quốc gia có một truyền thống dân chủ sâu dày, với một xã hội dân sự hùng mạnh, gồm những thành tố trưởng thành như một nền báo chí độc lập và vô uý, những cơ sở tôn giáo và từ thiện độc lập, lúc nào cũng có thể nói lên tiếng nói công tâm, và nhất là một truyền thống pháp trị chí công vô tư, gồm có những quan toà độc lập, đứng ngoài các thế lực chính trị và phe phái, một luật sư đoàn không bị chính quyền khống chế, và có trình độ luật pháp thực sư, những công dân ý thức về quyền dân chủ cao và không sợ chính quyền. Chính thiếu những yếu tố này mà mô hình đại nghị, khi áp dụng cho Singapore thì biến thành một chế độ độc tài gia đình trị. Khi áp dụng cho một quốc gia tiến bộ như Nhật Bổn cũng làm chậm đi tiến trình dân chủ, vì Ðảng Dân Chủ Tự Do đã nắm độc quyền quá lâu.

Hai lý do trên cho chúng ta thấy rằng, với điều 4 hiến pháp phi lý và độc tôn; với sự vắng bóng một truyền thống dân chủ sâu dày; với sự non nớt của hệ thống pháp trị tại Việt Nam, mô hình tổng thống chế sẽ thuận lợi hơn cho sự phát triển dân chủ thực sự.

Chúng ta đều biết mô hình này đặt căn bản trên quan điểm tam quyền phân lập của nhà lý thuyết chính tri Montesquieu, trong cuốn sách danh tiếng của Ông là “Esprit Des Lois” (Vạn Pháp Tinh Lý). Trọng tâm của nó là quan điểm: nếu muốn tránh sự độc tài thì quyền chính trị trong một quốc gia không thể trao cho một cá nhân hay một cơ chế nào duy nhất được. Chính vì thế các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp phải độc lập và được điều hành bởi 3 cơ chế khác nhau. Nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau phải thay phiên nhau nắm những bộ phận khác nhau của quyền lực chính trị. Trong hoàn cảnh chính trị của Việt Nam, mô hình này thuận lợi cho tiến trình dân chủ hoá đất nước hơn.

Trái lại, nếu theo mô hình đại nghị thì, trong 7 điểm mà TS NSD nêu ra, các điểm sau đây sẽ rất nhiều trở ngại:

. -Ðiểm 1: Quy trình ban hành quyết định là một quy trình thống nhất và minh bạch và hiệu quả từ sáng kiến về chính sách đến tranh luận về chính sách và phê chuẩn chính sách:

Vì trong một mô hình đại nghị mà không có đối lập gì cả, hoặc không có đối lập mạnh, thì quy trình sẽ thống nhất vì độc tài, nhưng không minh bạch, vì chẳng có một thế lực nào có thể chất vấn chính quyền trong quy trình ban hành quyết định cả.

 -Ðiểm 3: . Chất lượng của các quyết định sẽ được nâng lên, vì các bước trong quy trình ban hành quyết định rất mạch lạc và bổ sung giá trị cho nhau. Nội các đề ra chính sách, thảo luận trong Đảng đoàn nên sẽ có sự gắn kết, ra toàn QH thì có sự phản biện và tranh luận:

Ông NSD đã quên đi, một các tỉnh bơ, là các chính sách thảo luận trong Ðảng chỉ có tính các cục bộ và chỉ củng cố cho sự độc tài. Khi ra đến quốc hội thì Ðảng, qua đa số áp đảo, sẽ không cho phép bất cứ một sự phản biện hoặc tranh luận nào có giá trị thực sự. Thế thì dân chủ sẽ tồn tại nơi đâu?

 

-Ðiểm 7: Tạo cơ hội để tách hành chính ra khỏi hành pháp, nhờ đó cải cách hành chính sẽ có được bước chuyển biến về chất và chế độ trách nhiệm sẽ được xác lập rõ ràng hơn:

Vấn đề tách rời hành chính ra khỏi hành pháp không phải là hệ lụy của mô hình đại nghị. Một mô hình tổng thống chế nghiêm chỉnh cũng sẽ tách rời hành chính ra khỏi hành pháp. Một chế độ pháp trị nghiêm minh, một hệ thống chính trị đa nguyên, một nền tự do báo chí thực sự, sẽ làm cho hành pháp phải tự chế, không thể sử dụng hành chính để củng cố hoặc bảo vệ quyền lợi cho phe nhóm hoặc cá nhân, hoặc đảng phái của chính mình.

Chúng ta có thể bảo đảm với TS NSD rằng, ngay cả trong mô hình đại nghị, nếu điều 4 hiến pháp được tiếp tục duy trì, nếu trong quốc hội chỉ lét đét vài dân biểu đối lập “cuội”, thì hành chính cũng sẽ tiếp tục làm công cụ trung thành của hành pháp mà thôi.

Các điểm còn lại 2, 4, 5 và 6 hoặc chỉ có hại cho sự phát triển dân chủ, và tăng thêm cường độ của độc tài, hoặc không liên hệ đến sự khác biệt giữa mô hình đại nghị và tổng thống chế.

Khi Khánh Linh nêu ra câu hỏi:

-          Với mô hình đại nghị, Quốc hội sẽ rất khó giám sát Chính phủ?

Ông NSD trả lời:

“- Đúng thế, khi Chính phủ có đa số trong Quốc hội thì khả năng giám sát của Quốc hội là không cao. Tuy nhiên, sự giám sát có thể xảy ra trong Đảng đoàn khi các đảng viên chỉ làm đại biểu cảnh báo cho các đảng viên nắm quyền hành pháp về những vấn đề cần phải quan tâm. Đồng thời, những đại biểu ngoài Đảng sẽ có vai trò rất quan trọng ở đây.

Một tỷ lệ nhất định những người ngoài đảng, độc lập, có trình độ, có tâm với đất nước làm chức năng giám sát bên cạnh chức năng đại diện và phản ánh những tiếng nói đa dạng của cử tri là rất cần thiết. Tỷ lệ bao nhiêu thì phải có tranh luận để tìm ra phương án tối ưu.”

Thực là một câu trả lời gượng ép!

Như đã nêu trên, trọng tâm của mô hình đại nghị là sự hiện diện của một chính đảng hoặc liên minh đảng phái đối lập hùng mạnh, mà TS NSD còn nói đến việc ấn định một tỷ lệ những người ngoài đảng! Như thế thì rõ ràng là người CSVN chưa bao giờ thành ý chính tâm trong công tác dân chủ hoá đất nước cả.

Sự thiếu thành ý chính tâm trong tiến trình dân chủ hóa đất nước, của người CSVN lại càng rõ rệt hơn, khi chúng ta nhìn thấy sự xích lại gần nhau giữa các lãnh đạo CSVN và bộ trưởng cố vấn Singapore Lý Quang Diệu.

Bề ngoài thì những tiếp xúc với LQD phần lớn nhằm mục đích cải tổ guồng máy hành chính của quốc gia (Vietnamnet 16/1/07, trong bài “ Cần mạnh dạn thay những cá nhân lỗi nhịp trong bộ máy”):

“Theo kinh nghiệm của Singapore, chính quyền nên quay lại để tìm cách thay đổi. Ra nước ngoài để học phương pháp tốt. Sau đó, quay lại, và khởi động lại. Đây sẽ là những tác nhân tích cực.

Ông Diệu phân tích rõ thêm, bắt đầu bất kỳ một công việc gì, bao giờ thời điểm ban đầu bộ máy cũng hoạt động rất tốt. Qua thời gian, trong bộ máy đang vận hành, sẽ có những cá nhân cụ thể bị "lỗi nhịp".

Với những người này, có hai lựa chọn, hoặc là gửi người đó ra nước ngoài học cách làm tốt, tìm cách thay đổi hoặc cho luân chuyển ra môi trường khác, học những điều mới từ đó thay đổi hệ thống, làm tốt hơn.

"Quan trọng là không để sự trì trệ nằm trong dòng chảy của mình. Đó là việc làm cần thiết mặc  dầu  đôi khi sẽ không được ủng hộ".

"Đôi lúc chúng ta phải làm mạnh vào những thời điểm không còn bộ óc mới, ý tưởng mới, không còn đủ dũng khí", ông Lý Quang Diệu nhấn mạnh. "Mạnh dạn có người mới thay thế là cách giúp Singapore không trì trệ". Việt Nam đang ở trong giai đoạn quan trọng để phát triển trong 5 năm tới, do đó, rất cần những người trẻ, năng động, nhiệt huyết làm, không thể thả lỏng.

Ông Diệu chia sẻ cách quản lý của Singapore, "chúng tôi ra Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản học, sau đó quay về tạo sự thay đổi. Sự thay đổi đó có thể đảo lộn nhưng đó là điều tốt và cần thiết". Việt Nam cũng cần như vậy. Và đây có thể là một cuộc cách mạng nhỏ.”

Thực ra thâm ý của CSVN là muốn học hỏi phần nào kinh nghiệm và phương thức cai trị độc tài của gia đình LQD và đảng Nhân Dân Hành Ðộng mà thôi.

Một trong những huyền thoại về gia đình họ Lý tại Singapore là:

Nếu không có vĩ nhân Lý Quang Diệu, và đảng Nhân Dân Hành Ðộng do Ông lãnh đạo, thì đảo quốc này sẽ không đạt được những thành quả rực rỡ hiện tại. Kết quả là toàn dân Singapore phải vĩnh viễn biết ơn, không những LQD, mà còn phải biết ơn, tôn sùng và cho phép gia đình này mãi mãi lãnh đạo, ngồi trên đầu trên cổ người dân Singapore.

Sau đây, chúng ta sẽ chứng minh huyền thoại này là sai lầm:

Theo CIA World Factbook thì chúng ta có các thống kê về sự phát triển của các quốc gia có nền văn hoá Ðông Á thấm nhuần truyền thống Tam Giáo (Phật, Lão và Khổng) tính bằng GDP đổ đầu người, theo mãi lực tương xứng (purchasing power parity) năm 2006, tính bằng Mỹ Kim:

1. Hồng Kông- $36,500

2. Nhật Bổn- $33,000

3. Singapore- $30,900

4. Ðài Loan- $29,000

5. Nam Hàn- $24,200

6. Trung Cộng- $7,600

7. Việt Nam- $3,100

8. Bắc Hàn- $1,800

9. Anh Quốc- $31,400

10. Pháp- $30,100

11. Úc- $32,900

12. Mỹ- $43,500

Khi nhìn và suy diễn từ các thống kê trên, chúng ta có thể kết luận không sai lầm rằng:

a.       Các quốc gia Ðông Á từ 1 đến 5 nêu trên có nền kinh tế phát triển hoặc xấp xỉ ngang bằng, hoặc đã vượt trên các quốc gia tây phương (từ 9 đến 11 nêu trên) trừ Hoa Kỳ (12).

b.      Hồng Kông, Nhật Bổn, Ðài Loan và Nam Hàn đã trở nên trù phú mà không cần đến Lý Quang Diệu. Quốc gia họ cũng không có thể chế “cha truyền con nối” như LQD.

c.       Các quốc gia có “định hướng xã hội chủ nghĩa” là kinh tế khốn cùng nhất.

d.      Càng xa lìa xã hội chủ nghĩa thì quốc gia càng phát triển kinh tế nhanh chóng. Trung quốc xa lìa trước Việt Nam 10 năm (nhờ Ðặng Tiểu Bình) và Bắc Hàn là gần nhất nên tệ hại nhất. Mức phát triển kinh tế của quốc gia tương xứng với mức độ xa lìa.

e.       Mức độ độc tài của một chế độ tương xứng với sự yếu kém về kinh tế.

f.        Có một tương quan hổ tương rõ rệt giữa nền văn hoá Ðông Á và khả năng phát triển kinh tế. Bất cứ dân tộc nào thấm nhuần nền văn hoá Ðông Á, trong vòng vài thập niên, cũng có thể vươn lên, bắt kịp và thậm chí qua mặt, các nước tây phương, trừ phi quốc gia đó bị chế độ độc tài cộng sản thống trị như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn.

Những kết luận trên, không những đánh đổ huyền thoại Lý Quang Diệu, mà còn cho chúng ta thấy rõ tại sao bây giờ, gia đình Lý Quang Diệu và đảng CSVN lại liên kết với nhau.

Ðây chính là sự liên kết giữa những cá nhân và tập thể gian hùng, từ phạm vi quốc gia muốn đi đến phạm vi quốc tế,  bóc lột dân tộc của mình, trong một thế giới mới và một kỷ nguyên mới hàm chứa nhiều nguy hiểm cho họ. Mặc  dầu  dân tộc Singapore trở nên trù phú, bằng bàn tay và khối óc của chính dân tộc và nền văn hoá cổ truyền của mình, và mặc  dầu  họ đã phải đèo bòng thêm gia đình họ Lý nhiều thập niên. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu cho thấy sự nhường nhịn của họ không phải vô giới hạn. Sự khiêm nhượng về dân số và đất đai của đảo quốc này , trong qua khứ, giúp cho gia đình họ Lý dễ dàng củng cố sự thống trị của gia đình và của đảng Nhân Dân Hành Ðộng, bằng những thủ thuật chính trị. Tuy nhiên đó cũng chính là lý do đảo quốc này dễ dàng tiếp xúc với trào lưu dân chủ phổ thông trên toàn thế giới. Ngày dân chủ đa nguyên thật sự đúng nghĩa đến với Singpore có thể sẽ không còn xa lắm. Ðây chính là ưu tư lớn nhất của LQD và Ông đến Việt Nam để tìm đồng minh.

Dĩ nhiên, Singapore có 3 điểm hoàn toàn khác Việt Nam:

a.       Trước hết quốc gia này chỉ là một đảo quốc nhỏ bé với dân số 4.4 triệu và diện tích chỉ có 692 cây số vuông, có thể tương đối dễ dàng thống trị.

b.      Ðảo quốc này không hề bị “định hướng xã hội chủ nghĩa” kềm kẹp và họ theo khuynh hướng tư hữu và tư bản tuyệt đối

c.       Trên nguyên tắc và trên thực tế Singapore chấp nhận đa nguyên đa đảng. Các đảng phái khác nhau gồm có (CIA World Factbook):

-People's Action Party ( PAP) tức đảng Nhân Dân Hành Ðộng do con của Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long lãnh đạo và đang nắm quyền thủ tướng.

-Singapore Democratic Alliance ( SDA) tức Liên Minh Dân Chủ do CHIAM See Tong lãnh đạo.

-Singapore Democratic Party ( SDP) tức đảng Dân Chủ do CHEE Soon Juan lãnh đạo.

-Workers' Party ( WP) tức đảng Lao Ðộng do Sylvia LIM Swee Lian lãnh đạo.

Vấn đề ở Singapore là chính phủ Nhân Dân Hành Ðộng đã có nhiều biện pháp pháp lý và chính trị, vô cùng hiệu năng, để giới hạn khả năng đắc cử vào quốc hội của các đảng đối lập.

Vì Singapore theo thể chế đại nghị, một khi đảng này nắm đa số trong quốc hội thì sẽ khống chế tuyệt đối quyền lực chính trị. Trong một quốc hội đầy quyền lực theo mô hình đại nghị, mà đối lập yếu kém, kèm theo một truyền thống dân chủ phôi thai, một nghành tư pháp do đảng Nhân Dân Hành Ðộng ngự trị, và một giới cầm quyền không biết tự chế, thì làm sao gia đình họ Lý không giàu sang phú quý tột đỉnh nhiều đời, và ngồi trên ngai vàng, nhiều thập niên cho được?

Rõ ràng là người CSVN đang dọ dẫm tìm lối thoát cho chính họ. Tuy nhiên những bước thăm dò đầu tiên đã cho thấy sự vắng bóng thành ý và chính tâm của giới lãnh đạo.

Muốn thực sự có lối thoát lâu dài cho đảng CSVN, và cho cả dân tộc, ra khỏi sự tụt hậu do những chính sách và ý thức hệ tai hại chính họ đem lại cho đất nước, thì các biện pháp sau đây cần được thi hành:

1.      Thay vì luật hoá điều 4 hiến pháp, người CSVN phải có đầy đủ lòng yêu nước và hùng tâm tráng chí, huỷ bỏ điều 4 hiến pháp. Sự luật hoá một điều khoản của hiến pháp sở dĩ xảy ra trong những nước văn minh và dân chủ thực sự, vì những điều khoản đó tuân theo nguyên tắc công bằng và lẽ phải. Ðiều 4 phi lý, bất công, phi dân chủ, là một sỉ nhục cho dân tôc và đất nước trên trường quốc tế, thì còn lưu luyến làm gì? Nếu không phải chỉ vì muốn độc quyền, độc tôn và trục lợi, lưu xú ngàn năm? Nếu chủ động huỷ bỏ điều 4 thì may ra toàn dân, cả Bắc lẫn Nam có thể thông cảm và xóa bỏ những sai lầm trong quá khứ. Nếu ngoan cố luật hoá điều 4, thì biện pháp này cũng chỉ có giá trị tạm thời, cũng sẽ có ngày phải huỷ bỏ vì sự tranh đấu của dân tộc. Ngày đó, toàn dân sẽ không còn khả năng tha thứ nữa.

2.      Hãy bỏ ngay mưu đồ xử dụng mô hình đại nghị, qua đảng kiểm soát đa số trong quốc hội, qua quốc hội thống trị toàn dân và xã hội, và học hỏi những xảo thuật chính trị của đảng Nhân Dân Hành Ðộng Singapore và gia đình họ Lý. Trước hết, một xã hội thiếu truyền thống dân chủ như Việt Nam cần phải có một mô hình tổng thống chế, trong đó yếu tố tam quyền phân lập rõ rệt sẽ giới hạn sự lạm quyền của kẻ hoặc đảng nắm quyền. Thứ nhì, Việt Nam là một quốc gia lớn với dân số 84 triệu và đất đai tương đối rộng rãi, phong tục đa diện, cấu trúc các địa phương và cấu trúc xã hội phức tạp. Ðừng bao giờ mơ tưởng đến việc xử dụng bất cứ xảo thuật nào, kể luôn cả các xảo thuật từ Singapore, để thống trị người Việt Nam. Tốt hơn hết, và khôn ngoan hơn hết, là người CSVN phải thành ý, chính tâm, huỷ bỏ điều 4, cùng các thanh phần chính trị và xã hội khác, viết lên một bản hiến pháp bình đẳng, chí công vô tư, xây dựng một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính. Trong mô hình như thế, đảng CSVN sẽ cạnh tranh lá phiếu công bằng với tất cả mọi thanh phần khác của xã hội. Chân lý này đơn giản cho mọi kẻ thành tâm yêu nước. Nhân loại văn minh đang áp dụng và hưởng thụ thành quả của chân lý này, trừ dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của người CSVN.

3.      Hiến định hoá, hoặc luật hoá nguyên tắc bầu cử ‘”đại diện theo tỷ lệ” (proportional representations) thay vì “ngựa chạy về nhất” (first past the post). Phương pháp thứ nhất, đang áp dụng tại Úc, Tân Tây Lan, Pháp, phần lớn các quốc gia tây phương, sẽ giúp các đảng phái đạt được số ghế trong quốc hội phù hợp với tỷ lệ dân chúng ủng hộ mình. Phương pháp thứ nhì chỉ có lợi cho các đảng lớn mạnh mà thôi. Một quốc gia dân chủ đa nguyên chân chính phải thể hiện trong cơ quan quyền lực của mình, những khuynh hướng chính trị tế vi và nhạy cảm nhất, để tránh những xáo trộn do các phe nhóm thiểu số và bất mãn tạo ra.

4.      Cuối cùng, người CSVN đừng bao giờ vi phạm lỗi lầm nghiêm trọng là đánh giá thấp tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam không phải là người Trung Hoa hoặc người Singapore. Chúng ta có niềm tin và niềm hãnh diện rằng Lý Quang Diệu v à gia đình có thể thống trị dân Singapore hiền lành một thời gian nữa. Ðảng Cộng Sản Trung Quốc có thể thống trị dân Trung Hoa không kém hiền lành và nhẫn nhục, một thời gian nữa. Tuy nhiên ngày tự do dân chủ thật sự sẽ đến nhanh chóng hơn trên đất nước Việt Nam, vì tinh thần bất khuất đặc thù từ ngàn năm của giống nòi Việt Nam. Dân tộc ta không hiền lành như người Trung Hoa. Dân tộc Việt Nam đã nổi giận với giặc Mông Cổ, giặc Mãn Thanh, giặc Pháp. Nhất là dân tộc ta đang nổi giận với đảng CSVN!

Ði ngược lại những điều trên thì đảng CSVN trở thành kẻ nội thù của dân tộc, trong tiến trình đấu tranh cho dân chủ cam go trước mắt. Một mặt, dân tộc Việt Nam phải cố sức vươn lên để bắt kịp các quốc gia Ðông Á trong khu vực. Một mặt, phải quyết liệt đấu tranh với một kẻ nội thù gian manh và ích kỷ. Làm hai việc cùng một lượt sẽ khó khăn, và sự phát triển kinh tế sẽ châm đi rất nhiều, trong một môi trường thế giới cạnh tranh khốc liệt. Dĩ nhiên dân chủ sẽ chiến thắng nhưng sự hận thù và đổ máu khó bề tránh khỏi.

 

Luật Sư Ðào Tăng Dực

Sydney 2 February 2007

Trở về trang đầu